Lưu trữ

Archive for Tháng Bảy, 2009

Thi sĩ Bùi Giáng và tình cảm với các Sư Cô

Thi sĩ Bùi Giáng

 

và tình cảm với các Sư Cô

 

 

 

         Một con người xuất khẩu thành thơ, đi mua chịu rượu và đồ nhậu, ghi vào sổ nợ cũng ghi bằng thơ, viết văn và làm thơ với một tốc độ kinh hồn, ông để lại cho nền văn học Việt Nam một số lượng tác phẩm đồ sộ, giá trị. Vậy mà số phận thật hẩm hiu, ông có vợ, có người yêu nhưng không tìm thấy hạnh phúc, ông chia tay với vợ, với người yêu và giong ruỗi đi tìm, đi tìm giai nhân khắp bốn phương trời, tìm trong mộng, trong thi ca và trong cả những ngôi chùa mà ông có duyên đến và được đón nhận, không mặn nồng  nhưng vẫn không lạt lẽo. Bởi vì ông có thời dạy văn chương ở Đại Học Vạn Hạnh của Phật giáo ở đường Trương Minh Giảng Sài Gòn, với lại ông có điên điên nhưng lành không phá phách, nên những ngôi chùa ông đến đều cho ông ăn cơm, thỉnh thoảng có cho tiền nữa. Ngôi chùa ông thường đến là ngôi chùa Dược Sư ở đường Lê Quang Định Gò Vấp, Thành Phố Hồ Chí Minh, nơi đó có phòng phát hành kinh sách Phật Giáo, có Sư Cô Như Hạnh phụ trách. Tôi mê sách nên mỗi khi đi Sài Gòn là luôn ghé lại chùa Dược Sư, có quen Sư Cô Như Hạnh, tôi thường ghé phòng phát hành kinh sách và Thi Sĩ Bùi Giáng cũng hay ghé lại, bởi vậy tôi có gặp ông. Hôm đó ông tới ( xin lỗi tôi không còn nhớ rõ năm ) và cũng đúng lúc nhà chùa thọ trai, nên Sư Cô Như Hạnh vô bên trong nhà trù bưng ra đĩa cơm mời ông, ăn xong còn dúi tiền vào tay ông nữa. Trên bàn có viết và giấy, ông tự tay lấy viết và hý hoáy viết. Tít tắt ông bỏ viết xuống và nhìn Sư Cô Như Hạnh cười móm mém, như thầm cảm ơn và ra đi.

          Ông đi rồi Sư Cô Như Hạnh, đưa tờ giấy có chữ viết của Thi Sĩ Bùi Giáng với nét bút sắt thật đẹp cho tôi, ông viết không đẹp như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhưng mà vẫn đẹp, bay bướm nữa. Ông viết bốn câu lục bát :

 

Đi tu thứ nhất ở chùa,

Thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang –

 

Dược Sư thơ mộng vô vàn,

Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân.

 

Hai chữ tần thân ông viết bằng chữ Việt, ông mở ngoặc viết chữ Hán rồi đóng ngoặc lại. Tôi không hiểu hai chữ tần thân, sau này tra Tự Điển Hán Việt có nghĩa như sau: Tần : luôn luôn – Thân: rên rỉ .

 

Đọc bốn câu thơ lục bát của ông, mới thấy được cái tài hoa, cái xuất khẩu thành thơ của ông, cái uyên áo trong tứ thơ của ông. Tôi có một người bạn ở Hoa Kỳ, cũng là một thi sĩ am hiểu Phật học, tôi gởi tặng anh hai câu “ Đi tu thứ nhất ở chùa, thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang “ Anh hiểu theo cách hiểu của anh, giảng lại cho tôi nghe rất dài dòng văn tự. Anh giảng câu đầu là ông nói về tục đế, câu thứ hai nói về chân đế, trong tục có chân và trong chân có tục, tương nhiếp lẫn nhau, vân vân và vân vân. Tôi chỉ nghe không ý kiến bởi vì chỉ có Thi Sĩ Bùi Bàng Giúi mới có thể giảng giải thâm ý của ông .

 

 

Tôi mơ màng nghĩ ngợi hai câu sau :

 

 

Dược Sư thơ mộng vô vàn,

Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân.

 

Chắc hẳn rằng khi chia tay với vợ, và sau này cả người yêu nữa, ông có đau khổ, có trách họ, rằng họ đã không hiểu ông, không nuôi dưỡng hồn thơ ông, để ông cô đơn rồi đến nỗi phải chia tay. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn ông, ông vẫn còn yêu họ, thương họ, ông muốn có không khí ấm cúng của một gia đình, có đĩa cơm nóng hổi, đậm đà hương vị quê hương, có tô canh rau tần, đĩa mướp xào, chén tương, chén cà, đĩa rau luộc.…Ông đọc nhiều chắc ông có ao ước như Đại văn hào Nga Dostoiefski “ Tôi xin đổi tất cả văn nghiệp của tôi , để có được một người vợ, biết nấu cho ăn ngon, và biết đứng ở cửa đợi chờ tôi về, trong suốt một ngày tôi làm việc mệt “.

 

Vẫn còn yêu thương người nữ,vẫn nhớ đến người mang nặng đẻ đau mình, và công đức sinh thành hơn cả nước trong nguồn chảy ra nữa. Ông nhớ đến người mẹ mẫu mực nhưng lận đận một đời đã khuất, nên khi gặp Ni Sư Trí Hải, có tên đời là Công tằng tôn nữ Phùng Khánh, đẹp người, đẹp hạnh tu, trí tuệ bậc nhất trong giới tu nữ ở đất Sài thành, ông đem lòng thương kính cứ luôn gọi là mẫu thân Phùng Khánh, sau khi ông mất Ni Sư Trí Hải có giảng cho Tăng Ni Phật tử về thâm nghĩa trong thơ ca của Bùi Giáng trong nhiều buổi giảng . Thương, quý, Ni Sư Trí Hải ông thương lây qua các Ni Cô khác, nhất là các Ni Cô ở chùa Dược Sư, nơi mà ông thường lui tới nghỉ chân, được ăn cơm , được lì xì tiền tiêu vặt. Cảm nghĩa, cảm tình ông đã coi chùa Dược Sư là thơ mộng nhất, các Ni Cô là người hiền thục nhất, đẹp nhất trong giới nữ lưu. Ông đã nhớ đến họ, tâm tưởng đến họ và có lúc ông đã buồn, qua họ ông nhớ đến mẹ ông, vợ ông ngày cũ, nhớ đến người yêu dang dở chia tay. Nhớ đến thân phận của một kẻ lãng tử như mình, tứ cố vô thân, không một mái ấm gia đình. May thay vẫn còn lòng từ bi của Phật, cho ăn cho uống, không đuổi xô, hất hủi. Chính điều đó đã khiến cho ông buồn tủi, và cái buồn của ông “ Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân

 

Sống ông dạy học trường chùa, ăn cơm chùa, và khi chết ông được chùa Vĩnh Nghiêm lo tang lễ, có Sư Tăng tụng niệm nguyện cầu. Âu đó cũng là duyên phước cuối kiếp làm người của ông. Nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu, bỗng nhớ về ông trong một đêm mưa gió bời bời, viết về ông, ghi lại bốn câu thơ ân nghĩa của ông để giữ lại tinh hoa của ông để rơi rớt lại trên dặm đường lãng du, phiêu bạt,mà ông tự nhận đứng hàng thứ hai sau các Sư Cô xuất gia ở Chùa:

 

Đi tu thứ nhất ở chùa,

Thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang .

 

 

 Chùa Bửu Minh, Gia Lai,

 Mùa Vu Lan Phật Lịch 2552-DL.2008.

 

 Thích Giác Tâm

Chuyên mục:Uncategorized

NHỮNG BÀI THƠ TĂNG CHÁU

THƠ TẶNG CHÁU NGHĨA CỦA ÔNG

 

Ông thương cu Nghĩa lắm mà

Từ đâu đi tới ở nhà Như Lai

Đến đây thì phải miệt mài

Học chăm hạnh đức tương lai sáng ngời

GT

 

Ước gì đệ tử lặng yên

Để cho Sư Phụ khỏi phiền trong tâm

An nhiên niệm Phật thì thầm

Lắng lòng nghe pháp ân thâm đáp đền

GT

 

Con là cu Nghĩa húi cua

Đêm trăng ai bỏ cổng chùa Bửu Minh

Từ Bi cửa Phật thương tình

Nuôi con khôn lớn thông minh giúp đời

GT

 

Ông thương con lắm mẹ ơi

Lo con từng chút không lời rên than

Ông luôn thăm viếng hỏi han

Thấy con sựa Ông lại càng lo hơn

Ông đi hái thuốc trên non

Chăm con hết bệnh để còn lớn nhanh

Mười năm nữa mẹ về thăm

Con xinh đẹp như trăng rằm mẹ coi.

GT

 

Con hiện ra giữa núi đồi

Ngẩng nhìn trăng sáng mỉm cười thế gian

Mẹ con lệ đổ hai hàng

Yêu thương ly biệt khóc khan giọng rồi

Thì thôi để mặc mây trôi

Tháng ngày tịch lặng bên đồi phù vân.

GT.

 

Ngày Phật sinh con lại về

Biển Hồ vỗ sóng sơn khê bồi hồi

Vang vang chuông mõ núi đồi

Con nghé nhỏ đuổi mặt trời đang lên.

GT

 

Con về với phố núi cao

Gặp Ông gặp Phật kiếp nào ngóng trông

Biển Hồ sâu thẳm mênh mông

Tình Ông chẳng khác vô cùng bao la

Chắp tay kính lễ Phật Đà

Độ con tu học quét nhà Như Lai

GT.

 

Lăng xăng chỉ làm phiền nhau

Mình nổi trội gây niềm đau cho người

Thế gian hoa đóm mây trôi

Về nơi tịch lặng ôn lời Phật khuyên.

GT

 

Thênh thang thiên địa vậy mà

In tuồng giam lỏng quê nhà mù khơi

Đêm đêm khấn nguyện Phật trời

Cầu con thông tuệ giúp đời ngày mai

GT.

 

Nỗi đau thân phận cười lên

Cho phiền não nhẹ cho quên tháng ngày

Con ơi mẹ dặn câu này

Thân tâm phụng sự ơn Thầy khắc ghi

GT.

Chuyên mục:Uncategorized

SƯ BÀ TÂM ẤN

Tưởng nhớ Sư Bà  Tâm Hoa

Chùa Tâm Ấn

Thành Phố Quy Nhơn – Bình Định

Các con thương yêu !

Thường thường tiểu sử hay chân dung của người thân , Thầy viết một đến hai ngày là xong .Riêng trường hợp của Sư Bà Tâm Hoa thì trái lại , mười mấy năm rồi Thầy viết vẫn chưa xong . Chưa xong là bởi vì Thầy định viết mà không chịu viết , cứ ngần ngại cứ sợ các Sư Cô đệ tử  của Sư Bà đọc xong cười Thầy ( đệ tử và đệ tôn của Sư Bà rất đông và nhiều người giỏi lắm ) . Ngày hôm nayThầy lục lọi giấy tờ sách vở , tình cờ tìm thấy được một tấm ảnh của Sư Bà lúc Sư Bà 18-19 tuổi . Tấm ảnh có mặt ở cõi đời này khoảng 70 năm, ảnh đen trắng đã ố màu ,con ba đuôi gặm nhấm lỗ chỗ nhiều nơi trên tấm ảnh . Sư Bà mặc áo nhật bình màu lam có dây thắt lưng, đầu chít khăn lam, hai góc khăn chéo thắt lại sau gáy y hệt như các Ni Cô Miền Bắc bây giờ . Sư Bà ngồi kiết già bàn tay phải đặt trên lòng bàn tay trái, dáng ngồi thong dong . Gương mặt phúc hậu , đôi mắt nhìn xuống, mũi cao thẳng, miệng hơi rộng . Tóm lại là một Ni Cô có tướng hảo. Thầy mô tả hơi kỹ về Sư Bà qua bức ảnh chụp cách đây bảy mươi năm, vì đây là một kỷ niệm quý của Sư Bà cũng như con cháu trong đạo của Người còn lại được , nhờ Thầy còn cất giữ . Nhìn cách ăn mặc và chít khăn kiểu xưa của Sư Bà Thầy thấy đẹp và trang trọng hơn nhiều so với cách chít khăn của các Sư Cô ở miền trung miền nam bây giờ, cách chít khăn của các Sư Cô ở miền trung miền nam của mình là mô phỏng bắt chước các bà Sơ tây phương mới cách đây khoảng 50 năm .     Bức ảnh đã lay động đã nhắc Thầy phải viết về Sư Bà, kẻo Người đi về Cõi Tịnh thình lình thì Thầy sẽ mang một món nợ đối với Người .

 Hơn mười năm về trước ,Thầy có về chùa Tâm An ở Thành Phố Quy Nhơn kỵ giỗ Hoà Thượng Tịnh Khiết ( Sư Bà Y Chỉ Hoà Thượng Tịnh Khiết ) . Sư Bà có nói với Thầy :” Tôi kể lại  đời tôi rồi nhờ Thầy viết dùm tiểu sử tôi, phòng khi  ra đi đột xuất thì cũng có tiểu sử mà đọc cho vui “ . ĐệTử Sư Bà rất đông , nhiều vị văn chương chữ nghĩa giỏi hơn Thầy rất nhiều , Thầy không dám múa rìu qua mắt thợ , nhưng Sư bà tin tưởng thương mến nhờ mà không “ phụng mạng “ thì thiếu tình và bất kính nên Thầy nhận lời viết về cuộc đời Sư Bà. Năm đó Sư Bà còn minh mẫn nhớ rất nhiều kể lại những nét chính về cuộc đời của mình để Thầy ghi chép lại, tấm ảnh và thủ bút hai bài thơ của Sư Bà làm ngày còn trẻ Thầy còn giữ được là do Sư Bà đưa cho Thầy làm tài liệu trong dịp ấy .

Mới đây Thầy có được bản tiểu sử của Sư Bà do các Sư Cô đệ tử viết tóm tắt , rằng Sư Bà sinh tại làng Tân An Tỉnh Cần Thơ . Nhưng theo lời Sư Bà kể cho Thầy nghe thì không phải như vậy .

Sư Bà thế danh là: Nguyễn thị Diệp , Sinh năm Tân Hợi ( 1911 ) quê quán ở làng Lộ Bao, Tổng Nội Duệ , Huyện Tiên Du, Phủ Từ Sơn Tỉnh Bắc Ninh trong một gia đình tín mộ đạo Phật .

 Thân Phụ tên : Nguyễn văn Liễu , nghề nghiệp hương chức , biết chữ Hán chữ Nôm và chữ Quốc ngữ , tính tình chơn chất thiệt thà , không bao giờ làm mắc lòng hàng xóm. Cụ ông mất năm 51 tuổi . Thân Mẫu tên : Đào thị Lớn , nghề nghiệp buôn bán dệt vải, mất năm 72 tuổi . Ong Bà sinh được 11 người con , nhưng hữu sinh vô dưỡng chỉ còn lại có 3 người : Sư Bà , người anh thứ hai và một người em út .

Năm Sư bà 9 tuổi tức là năm Kỷ mùi ( 1919 ) gia đình vào Sài Gòn lập nghiệp được một thời gian rồi dời nhà xuống Tỉnh Cần Thơ sinh sống  . Sinh trưởng trong gia đình mộ đạo, nên đức tin được nuôi dưỡng mỗi ngày mỗi lớn mạnh . Vào năm Đinh mão ( 1927 ) vừa tròn 17 tuổi được song  thân đồng ý Sư Bà xin xuất gia với Hoà Thượng Thái Ba ở chùa Phước Long, thuộc Cái Tàu Hạ-Sa Đéc.Ngài Thái Ba ban cho Pháp Danh là :Giác Liên tự là Diệu Huệ .

Đôi nét về Hoà Thượng TháiBa :

Còn gọi ngài là Hoà Thượng Tôn Minh, huý là Đạt Quang, hiệu là Huệ Định , khai sơn chùa Báo An nhưng trụ trì chùa Phước Long . Ngài thân hình nhỏ nhắn xương xẩu , sóng mũi cao , hai mắt sáng , giọng nói trong thanh . Thâm uyên phật pháp , suốt đời không bao giờ đi xe kéo , khi tịch ngồi mà hoá thọ 76 tuổi .

Sau khi được Hoà Thượng Bổn Sư thế độ , Sư Bà phát nguyện trì tụng Chú Đại Bi từ 3 giờ sáng đến 11 giờ trưa mới nghỉ. Chiều từ 2 giờ đến 9 giờ đêm .Hơn một năm Sư bà đã tụng được 3 tạng ( một tạng là 6000 biến ) .

( Một tạng là để đền ơn Thầy Tổ

(Một tạng là để đền ơn lục thân quyến thuộc .

 (Một tạng là để cầu tu cho được trọn đời

Thời gian trì tụng chú Đại Bi là ở tại chùa Báo An thị xã Cần Thơ . 

Năm Mậu Thìn ( I928 ) Với ý chí cầu tiến khát khao học hỏi phật pháp, Sư Bà đã xin Hoà Thượng Bổn Sư ra Huế tu học . Lớp học gia giáo của Ni Bộ đầu tiên được mở tạm tại chùa Từ Đàm do Sư Cụ Trừng Ninh, hiệu Diệu Hương làm Giám Đốc ( khi chưa xuất gia là người thiếp thứ 7 của vua Thành Thái ) .

Học tại chùa Từ Đàm một thời gian ngắn , lớp học được dời qua Ni Viện Diệu Đức . Ban Giáo Thọ trước sau gồm có các Ôn : Mật Hiển , Trí Thủ , Mật Nguyện , Mật Thể .

 Năm Canh Ngọ ( 1930 ) Sư Bà được 20 tuổi, thọ giới Sa Di và xin Y Chỉ với Hoà Thượng Tịnh Khiết ( Hoà Thượng Tịnh Khiết là Đức Tăng Thống đệ nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam T.N ) . Hoà Thượng đặt pháp danh cho Sư Bà là Tâm Hoa, tự Diệu Liên, Hiệu Thiền Dung .Lúc bấy giờ Hoà Thượng Bổn Sư của Sư Bà đã tịch .

Những năm tháng đó các lớp gia giáo phật pháp , không có lớp nào mở dạy được lâu vì nhiều lý do , nhưng cơ bản nhất vẫn là kinh tế khó khăn . Ni Viện Diệu Đức giáo dưỡng Ni Chúng được môt thời gian ngắn rồi đem Ni Chúng vào Sa Đéc tòng học tại trường gia giáo do Bà Ba Sàng xây dựng và cung cấp lương thực ( nhờ buôn bán hột sàng mà trở nên giàu có nên gọi là Bà Ba Sàng ) Lớp học này Ni Chúng gần cả trăm  .

 Ban Giám Đốc gồm có các vị : On Mật Hiển , Sư Cụ Kim Huê , Thầy Hải An pháp tự Diệu Tịnh ( ni ) .Lớp học duy trì được 3 tháng . Sau dời lên chùa Vạn An ( Sa Đéc ) học tiếp 9 tháng . Rồi chuyển Ni Chúng qua chùa Linh Phước của Bà Bang Biện học đươc 1 năm . Chùa Linh Phước ở Cai Khoa-Sa Đéc , năm học này do Bà Bang Biện cung cấp lương thực .

Ban Giáo Thọ dạy tại chùa Linh Phước gồm có các vị :

Hoà Thượng Chánh Quang , Hoà Thượng Huyền Cơ , Sư Cụ Diệu Tịnh-Hải An , thời gian sau bổ sung thêm Hoà Thượng Giác Tâm. Đồng học với Sư Bà trong thời điểm đó gồm có các Sư Bà : Bảo Quang , Viên Minh , Huyền Học , Huyền Tông , Từ Nguyên , Hải Huệ , Huyền Phương .

Năm Ất Hợi ( 1935 ) Sư Bà về ở tại chùa Sanh Liên , Bình Định ( ngôi chùa này do Hoà Thượng Tịnh Liên sáng lập, sau đó cúng lại cho Sư Bà ) . Năm Bính Tý ( 1936 ) Sư Bà theo học lớp phật pháp mở tại chùa Hải Đức, Nha Trang . Lớp học này do Hoà Thượng Giác Phong (Bích Không ) phụ trách .

Học Tăng gồm có các Hoà Thượng : H.T Kế Châu , Bình Chánh , Bích Nguyên , Thiện Thừa , Viên Minh , Viên Nguyện .

 Học Ni thì có : Sư Bà Huyền Học, Tâm Đăng …Học được một năm .

Năm Mậu Dần ( 1938 ) Sư Bà chính thức nhận chức Trú Trì chùa Sanh Liên , ở An Nhơn , Bình Định .

Năm Canh Thìn ( 1940 ) Sư Bà thọ giới Tỳ Kheo tại Giới Đàn mở tại Phan Thiết .Giới Đàn này do các vị sau đây truyền giới :

Ngài Phổ Thiên làm Đường Đầu Hoà Thượng .

Hoà Thượng Trí Thủ làm Yết Ma A Xà Lê .

Hoà Thượng Mật Nguyện làm Giáo Thọ A Xà Lê .

Cùng thọ Giới Đàn này có các Sư Bà : Huyền Tông , Huyền Học , Tâm Đăng , Huyền Căn , Huyền Giáo , Huyền Huệ .

Từ năm 1945-1954 Sư Bà ở chùa Sanh Liên dạy dỗ đồ chúng, cùng đệ tử dệt vải , làm nông tự túc sống . Trong thời gian 9 năm kháng chiến Sư Bà trùng tu chùa Sanh Liên trở lại , nguyên lợp tranh vách đất .

Năm Giáp Ngọ ( 1954 ) Sư Bà có ở chùa Diệu An , Phan Rang một năm .Rất say mê giáo lý Viên Dung vô ngại của Kinh Hoa Nghiêm nên thời gian này Sư Bà để tâm nghiên cứu và hành trì Kinh Hoa Nghiêm ( trước đó Sư Bà rất thích tư tưởng của bộ Kinh Lăng Già Tâm An , có lẽ đặt  hiệu chùa Tâm An là để nhớ lại bộ Kinh mà mình mến mộ ) . Mùa hạ năm At Mùi ( 1955 ) Sư Bà an cư tại Đà Lạt ( có lẽ tại chùa Linh Phong ) .

Tháng 7 năm 1955 Sư bà về Qui Nhơn xây dựng chùa Tâm An , đến năm 1956 thì hoàn thành . Chùa Tâm An trước đó ở gần nhà ga xe lửa Qui Nhơn .

 Năm 1961-1962 với lòng thương lớn Sư Bà đã vận động quyên góp xây dựng Cô Ký Nhi Viện , nhân nuôi dưỡng các cháu mồ côi , vô thừa nhận . duy trì đến năm 1975 . Cùng năm 1962 Sư Bà trùng tu chùa Sanh Liên một lần nữa.

Năm 1964 đến nay Sư Bà là vị Ni Trưởng đại diện cho Ni Bộ Tỉnh Bình Định .

Năm 1967 ,tại xã An Mỹ, thị xã Pleiku , Tỉnh Gia Lai có hai Phật tử là Mai Lực và Trần thị Hạnh hiến cúng cho Sư Bà đất vườn và một ngôi nhà thờ nhỏ của giòng tộc . Sư Bà đã nhận và tái thiết thành ngôi chùa đặt tên là An Thạnh .

 Năm 1967 Sư Bà Như Huệ ( Quản viện chùa Từ Nghiêm, Sài Gòn ) hướng dẫn phái đoàn Chư Ni sang hành hương các nước Phật Giáo á đông như Nhật Bổn , Đài Loan , Hồng Kông để tìm hiểu thêm về Đạo Phật ở các xứ này . Sư Bà có cùng tháp tùng trong chuyến hành hương này .

 Năm 1973, Hoà Thượng Thanh Từ viện chủ Tu Viện Chơn Không ở Vũng Tàu , mở khoá tu học Thiền ,khôi phục lại tinh thần Thiền Tông Việt Nam. Theo khoá trình mỗi tháng một tuần lễ . Sư bà đã xin vào khoá tu này để tìm hiểu và thực hành Thiền ( thời gian khoảng hai năm )

Giai đoạn tham học này, Sư Bà cảm nhận  yếu chỉ của Thiền Tông một cách rất sâu sắc. Kinh điển trước đây học ở Ni Viện Diệu Đức- Huế và Thích Nữ Học Đường ( trường Gia Giáo ) ở Sa Đéc có chỗ còn mập mờ chưa nắm hết những ý thú sâu nhiệm. Qua khoá tu này Sư Bà đã hiểu được huyền nghĩa uyên áo của Kinh Điển.

Năm 1982 , tuy đã lớn tuổi nhưng vẫn say mê tìm hiểu giáo lý Thiền Tông . Sư Bà vào Sài Gòn tham học Thiền với Thiền Sư Duy Lực chùa Từ An . Thiền Sư Duy Lực người gốc Hoa là điệt tôn của ngài Lai Quả. Ngài Lai Quả đồng thời với Ngài Hư Vân, là danh tăng lỗi lạc của Trung Quốc cận đại.

Phái Thiền này tu theo phương pháp tham công án .

Mặc dù rất ham học hỏi nghiên cứu Thiền Tông , song trong thời khoá hằng ngày Sư Bà vẫn áp dụng pháp môn niệm phật, vì Sư Bà nhận biết nếu giây phút hiện tại mà sống có chánh niệm,thì Tịnh Độ chính trong giây phút hiện tiền , chứ không cách đây mười muôn ức cõi Phật gì hết.Do vậy Sư Bà luôn dung hợp giáo lý Thiền Tịnh ,trong tu tập cũng như hướng dẫn đệ tử hằng ngày .

Đệ Tử xuất gia và tại gia mỗi ngày mỗi đông, mà chùa Tâm An xây dựng năm 1956 tại đường Tăng Bạt Hổ Thành Phố Qui Nhơn cũng đã xuống cấp và nhỏ hẹp so với nhu cầu sinh hoạt, nên vào năm 1995 Sư Bà đã quyết định trùng tu lại để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng quần chúng và tạo thêm cảnh quan cho quê hương đất nước . Lần trùng tu này chùa Tâm An trở thành một danh lam của Tỉnh Bình Định .

Vì muốn có người Truyền Đăng Tục Diệm, thắp sáng ngọn đuốc chánh pháp, nên Sư Bà rất quan tâm tổ chức Giới Đàn . Sư Bà làm Chủ Đàn , Đường Đầu Hoà Thượng, Yết Ma, Giáo Thọ A Xà Lê, cho các Giới Đàn….

Vào những năm. . . . . . . . .. . . . . . . .. . . . ở . .. … .. .. . . . . . . . . . . . . . . . .. . . .

Sư Bà có nhiều điểm hơi khác thường : Khi mới sinh ra thì đầu có chỏm tóc như các Điệu, lớn lên thì vóc dáng có tướng nam, Ý chí thì sắc đá kiên định, không bao giờ bỏ cuộc nửa chừng .

Hôm đó Thầy có hỏi Sư Bà :

Trong kinh Phật hay nói đến đàn bà nghiệp chướng rất nặng khó tu , cho nên trong giới nữ tu ai cũng muốn tu tập hết đời này khi tái sinh được chuyển thân nữ thành thân nam. Còn riêng Sư Bà thì sao ?

Cả một đời tu tập hành đạo , lo lắng cho Phật Pháp, cho Ni chúng . Khi mãn duyên ở cõi Ta Bà, Sư Bà có muốn vãng sanh cõi Cực Lạc hay không ? Có muốn đổi thân nữ thành nam để dễ tu tập và hành đạo như một số đông trong Ni giới mong ước hay không ?

Sư Bà trả lời : “ Cuộc đời tu tập hành đạo của tôi nếu có được chút công đức , phước đức gì , thì tôi xin Phật cho tôi kiếp sau được trở lại làm thân nữ để tu tập và dìu dắt Ni chúng tiếp . Bởi vì có làm thân nữ mới hiểu thấu được niềm đau nỗi khổ của giới nữ  mà độ họ hiệu quả hơn” .

Viết và kể về cuộc đời của Sư Bà cho các con nghe mà không đưa bài thơ này vào trang tiểu sử lỡ thất lạc đi thì uổng lắm ! Đó là một bài thơ Sư Bà làm năm người 21 tuổi . Bài thơ như một bài tuyên ngôn và Sư Bà đã thực hiện được toàn vẹn bài tuyên ngôn đó cho đến cuối đời .

Nam mô chư Phật chứng cho lòng

Bể khổ thuyền từ nguyện lướt xông

Rán sức  đánh tan đoàn chướng thuỷ

Ra tay dằn dẹp đám cuồng phong

Nguyện đưa ni chúng lên bờ giác

Thệ dắt nữ lưu khỏi bụi hồng

Tòng bá há nài cơn tuyết đổ

Vào sinh ra tử cũng như không.

Không ai nghĩ rằng 92 năm trước nơi vùng Kinh Bắc ( trung tâm Phật Giáo Luy Lâu của những kỷ nguyên đầu tây lịch ) một cô bé mới sinh ra trên đầu có ba chỏm tóc trái đào , hơi lạ so với các cháu bé gái khác một chút. Chính cái lạ đó để 92 năm sau trở thành một chứng nhân của thế kỷ , trở thành một cây đại thụ  Bồ Đề của Phật Giáo toả bóng mát che chở cho rất nhiều chúng sinh hữu duyên .Một hạt Bồ Đề năm xưa của vùng quan họ Bắc Ninh đã nhân trồng  ra thành nhiều cây Bồ Đề trong nước :Long Thành- Đồng Nai , Bà Rịa- Vũng Tàu , Sài Gòn , Pleiku –Gia Lai, Bình Định-Quy Nhơn , và cả ở nước ngoài nữa.

Nhìn lại sự nghiệp một đời tu  của Sư Bà để  lại, Thầy trò chúng ta hết sức kinh ngạc thán phục : Một chùa Tâm An kiến trúc mỹ thuật , nguy nga . Một chùa Sanh Liên lặng lẽ giáo dưỡng Ni chúng. Một chùa An Thạnh thầm lặng nhưng đóng góp đạo đức vô hành . Gần năm mươi đệ tử xuất gia làm hạt nhân cho tương lai giáo hội. Gần ngàn đệ tử tại gia thân cận hộ trì Phật Pháp . Tiếp nối hạnh nguyện của Thầy mình, đệ tử của Sư Bà khắp nơi chốn đã mở mang mối đạo. 

Vĩ đại thay cao cả thay tấm lòng  của một bậc Đại Trượng Phu dưới hình hài của người nữ . Thân tứ đại của Sư Bà tuy không còn hiện hữu ở cõi đời nữa, nhưng Pháp Thân của Sư Bà thì bất sanh bất diệt. Trong gia đình tâm linh Sư Bà đã sanh con cháu quá nhiều , muôn đời tiếp nối.

Với đại nguyện mang thân nữ trở lại cõi Ta Bà hoá độ Ni giới ( và cho tất cả chúng ta nữa ) các giới Cận sự nam, Cận sự nữ ,đệ tử của Sư Bàbằng tuệ giác của nhà Phật hãy cẩn trọng thai giáo và khi sinh ra hãy nuôi dưỡng , un đúc đức tin tạo duyên cho các cháu phát triển hạt giống Bồ Đề. Bởi vì biết đâu trong các cháu bé thân thương đó có Sư Bà của chúng ta.

Chùa Bửu Minh-Gia Lai

Mùa An Cư Phật Lịch 2546

Thích Giác Tâm Biên Soạn .

Chuyên mục:Uncategorized

Pleiku và lữ khách

Pleiku và lữ khách

 

Con lưu lạc từ ngàn xưa lưu lạc ,

Bỏ Quê Hương quên cả lối đi về .

Đồi lộng gió tóc mẹ bay tóc bạc ,

Ngóng đợi con trăng khuyết đến trăng tròn .

 

Con nhớ mẹ tà áo bay áo trắng ,

Đưa con qua suốt cuộc tử sinh này .

Cưỡng lời mẹ con uống nhiều giọt đắng ,

Chợt tỉnh say mộng mị vơi đầy .

 

Rồi một ngày kia đi qua chùa cổ ,

Bỗng reo vui khi thấy dáng người .

Mẹ hiện hữu cho trần gian vơi khổ ,

Cõi người ta nay đã có tiếng cười .

 

Chiều cao nguyên bay qua ngàn mây trắng ,

Chim thiên di về với cội nguồn .

Hành lý đời từ nay không còn nặng ,

Xin gởi hồn mình theo tiếng chuông buông !

 

Thích Giác Tâm

( Pleiku – Gia Lai )

Chuyên mục:Uncategorized

Tình thầy trò

. Không hạnh phúc nào lớn hơn cho một người đệ tử, khi người đệ tử ấy biết mình đang được thầy mình thương yêu và tin cậy. Suốt một đời tu của thầy, thầy được nuôi dưỡng bằng tình thương và lòng tin cậy thầm lặng đó của Sư Ông. Và thầy nghĩ rằng Sư Ông cũng có rất nhiều hạnh phúc khi Sư Ông có những người đệ tử mà Sư Ông có thể đặt hết tình thương và lòng tin cậy của mình vào.

Chuyên mục:Uncategorized

Hello world!

Tháng Bảy 24, 2009 1 Bình luận

Welcome to WordPress.com. This is your first post. Edit or delete it and start blogging!

Chuyên mục:Uncategorized