CÁI BIẾT MUÔN LOÀI

Thích Giác Tâm

Trong khung cảnh êm đềm tịch lặng của ngôi chùa cổ, vào một buổi chiều mùa sen nở. Thầy trò chúng tôi ngồi uống nước trà , trong niềm vui chánh niệm. Nâng chén trà lên tôi đoán chắc rằng Thầy cũng sẽ đọc bài kệ mà Thầy thường dạy cho chúng tôi, về cách uống trà trong Đạo Phật. Uống trà được nâng lên thành một nghệ thuật , một thứ Đạo – Trà Đạo.
Chén trà trong hai tay

Chánh niệm nâng tròn đầy

Thân và tâm an trú

Bây giờ và ở đây.

Nhìn cách uống trà của Thầy, khoan thai trang trọng, tôi thấy Thầy trang nghiêm như đang tham dự một khoá lễ . Đặt tách trà xuống nhẹ nhàng và sửa lại tư thế Thầy bắt đầu kể:

Thầy đi xuất gia từ bé được giáo dục và đào tạo trong tinh thần nhân bản của Đạo Phật, thế mà đến năm 18-20 tuổi, Thầy vẫn chưa hoàn toàn tin Phật. Thầy rất cứng đầu cộng với cái ngông nghênh của tuổi trẻ nữa, những điều gì dẫu là lời Phật dạy mà thấy không hợp lý là không tin và chống đối . Hồi đó sư phụ của Thầy sau mỗi lần tụng kinh lễ Phật đều có lời phục nguyện : “Cầu cho kẻ âm siêu thoát người dương an lành, hoặc là tội diệt phước sanh, hay chiến tranh chấm dứt thiên hạ thái bình…” Những điều phục nguyện trên, Thầy đều thấy hợp lý và chấp nhận. Duy chỉ có lời phục nguyện sau đây là Thầy không thể nào chấp nhận được, vì thấy nó bất hợp lý và phản lại tinh thần khoa học. Lời phục nguyện đó là: “Con xin cầu nguyện cho những loài hữu tình và vô tình đều tròn đầy hạt giống hiểu biết và trí tuệ”.

Thầy tự nghĩ hữu tình là loài có tình thức hiểu biết như con người, loài vượn, khỉ, cá heo… chẳng hạn. Thì cầu cho chúng đầy đủ thể tính sáng suốt thì còn có thể được, nhưng loài vô tình như cây, cỏ, đá, hoa…thì cầu cho chúng phỏng có ích gì , vì nó biết gì đâu? Một vài lần Thầy đã đem vấn đề thắc mắc trên hỏi các Thầy lớn, song các Thầy giải thích thiếu tinh thần khoa học, nên Thầy cũng chưa thoả mãn. Chỉ mới đây thôi tình cờ đọc một bài báo, Thầy mới thấy được rằng khoa học càng phát triển thì sẽ củng cố thêm cho nền tảng triết học của Phật giáo, bài báo đó đại ý: “Bên Canada người ta dùng nhạc Mozart và Beethoven để nuôi dưỡng cho cây kiểng. Trong đêm tối người ta nhận ra các cây hoa lớn mau hơn và hướng về phía có nhạc Mozart phát ra, người ta lại đã thí nghiệm nhạc Mozart với lúa mì, lúa mạch. Họ bắt những loa phóng thanh trên cánh đồng lúa và cho nhạc Mozart phát thanh nhiều giờ trong ngày và người ta nhận thấy lúa mọc nhanh thoải mái và năng suất cao hơn các cánh đồng khác”.

Qua thí nghiệm trên đại chúng thấy đó, rõ ràng những loài vô tình vẫn có cái biết. Trí tuệ con người có thể đưa sắt thép nặng hàng tấn lên trời, nhưng không thể thay loài ong mà xây nên tổ cho chúng . Thầy nghe nói có những loài lan quý hình như Bạch Ngọc, Tố Tâm thì phải, đòi hỏi nước rửa mặt của người con gái đẹp tưới cho nó , nó mới phát triển cho hoa, còn giao cho đấng mày râu chăm sóc nó sẽ chết . Qua một vài tư liệu trên, mới thấy Tuệ Giác của Đức Phật thật siêu việt, trong khi nhân loai còn nằm trong thời kỳ hỗn mang tăm tối mà Ngài đã thấy được cái biết của muôn loài như vậy . Hèn chi trong kinh điển Đại Thừa với Tuệ Giác “ bất Nhị – không hai” đó, ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát luôn chắp tay cung kính, mỗi lần gặp ai ngài cũng đều thốt lên: “Tôi không dám khinh ngài vì ngài là một vị Phật tương lai”. Với cái nhìn cái thấy xuyên suốt vào thể tính bình đẳng của vạn hữu. Đức Phật của chúng ta lòng từ bi thật vô hạn.

Hồi nhỏ học luật Thầy thấy nhiều chuyện buồn cười. Thời Phật còn tại thế có vị Tỳ Kheo bị kẻ xấu cướp lấy Y Bát rồi trói ngài vào một sợi dây rừng còn sự sống, ngài không dám vùng vẫy để bứt ra, hay là có vị Tỳ Kheo mỗi khi đi ra đường lại đem chổi theo, mỗi bước chân đi qua đều phải quét trước sợ dẫm đạp lên côn trùng, và trong Đại Luật Phật chế các vị Tỳ Kheo không được tiểu lên cỏ sạch, dòng nước sạch. Những chuyện đó bây giờ Thầy thấy không còn buồn cười nữa, mà là một việc làm xuất phát từ tâm Đại Từ Đại Bi .

Cái ác lớn của con người bắt nguồn từ những cái ác nhỏ nhất, không nuôi dưỡng lòng thương thì cuộc đời này chỉ là địa ngục – địa ngục ở trong tâm hồn chúng ta.

Niết Bàn là gì? Là trạng thái an lạc trong tâm hồn với tấm lòng tràn đầy hiểu biết và yêu thương . Còn địa ngục? Là tâm niệm điên đảo vô minh mờ tối, đầy ngã chấp, tham sân, cọng với trạng thái dày vò ăn năn ray rứt với tội lỗi đã làm.

Vì tôn trọng sự sống như vậy nên đạo Phật được gọi là Đạo Hoà Bình. Con người trên trái đất này nếu thực hành giáo lý đạo Phật – Giáo lý bất hại, thì các nhà nhân chủng học, các nhà bảo vệ môi sinh khỏi phải hoảng kinh báo động lên rằng: “Trái đất đang bị lâm nguy, đang thoi thóp giãy giụa vì sự tàn phá của con người”.

Con người tồn tại được là tồn tại trong tương quan tương duyên với vạn hữu, vì theo lời Phật dạy: “Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt”. Không còn màu xanh hoa lá, không còn chim hót cá lội con người không thể nào hiện hữu được.

Ngoài kia trời đang xuống dần hương trà thoang thoảng nhẹ đưa, những đồi trà chung quanh chùa , sương chiều đã lãng đãng , từ lòng thung lũng một cánh chim vụt bay lên, bất giác tôi chợt nhớ bốn câu thơ :

Chim nào rớt xuống lòng thung  (*)

Xé toan lưới mộng trùng trùng bay lên

Bay lên đỉnh núi không tên

Cất cao tiếng hót mông mênh lưng trời.

Bao nhiêu năm giong ruổi tìm cầu , cũng có đôi lần đạt đến đỉnh cao của danh vọng bạc tiền, nhưng tự tâm không bao giờ thấy an lạc . Giờ đây hành lý đời đã quẳng lại hết, quay về nương tựa nơi am tranh góc núi… giòng sữa pháp ngày đêm nhuần thấm, tôi đã tìm lại được cho tâm hồn mình niềm thanh lương cố hữu. Một bình minh mới trong tâm tôi bắt đầu, hốt nhiên tôi thì thầm: “Thầy ơi – con đã thấy được đạo ở nơi tách trà, nơi tiếng chim hót, áng mây trời, cội tùng, đỉnh núi. Vì tất cả là biểu hiện của Pháp thân”.

—————–

(*) Thơ Nguyễn Văn Phước

Chuyên mục:Uncategorized

Chùa Bửu Minh – Gia Lai

Võ Văn Tường

 

Chùa toạ lạc tại xã Nghĩa Hưng, huyện Chưpăh, tỉnh Gia Lai. Chùa thường được gọi là chùa Biển Hồ Trà, chùa Phật nằm.  Chùa nguyên là “Chùa Phật học” do ông Nguyễn văn Khanh vận động thành lập và thỉnh Hoà Thượng Thích Từ Vân ở tỉnh Kon Tum xuống khai sơn vào khoảng năm 1935 -1936. Năm 1961, chùa được Phật tử địa phương xây dựng lại, mang tên “Chùa Bửu Minh”. Từ năm 2003, Thầy Thích Giác Tâm trụ trì Chùa; đã tiến hành đại trùng tu. Ngôi chùa kiến trúc hiện đại, quy mô to lớn, diện tích ngôi chánh điện mới là 520m2, cao 47m25, mái chùa có dáng dấp mái nhà rông Tây nguyên.

Điện thoại: 0905.146835

Email: thichgiactam@gmail.com

Website: http://chuabuuminh.vn

DSC_7679.jpg

DSC_7661+.jpg

112B.01+ (1).jpg

Dien Phat Chu Buu Minh (1) (1).jpg

DSC_7603.jpg

DSC_7630 (1).jpg

PQA 1.jpg

112B.04.jpg

112B.05.jpg

112B.06 (1).jpg

112B.07 (1).jpg

112B.08 (1).jpg

Bài: Tư liệu chùa

Ảnh: Nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ Văn Tường

 

 

 

Chuyên mục:Sử liệu

Dạy bé học ngoại ngữ

sumin536744Dạy bé học ngoại ngữ

Dạy bé học ngoại ngữ Nếu không muốn dạy bé học theo cách thông thường, bạn có thể chỉ cho bé thấy đồ vật có thể có hai tên. Khi bé nhìn thấy quả táo bé có thể nói “quả táo” và “apple”. Từ 2 đến 3 tuổi, trẻ phát triển những kỹ năng ngôn ngữ rất nhanh và cũng rất dễ tiếp thu bất điều gì trẻ nghe thấy. Bé có thể học để hiểu một từ mới bằng hai ngôn ngữ khác nhau với tốc đáng kinh ngạc. Rất nhiều cha mẹ bổ sung kiến thức ban đầu cho bé với những sách song ngữ, đồ chơi và đĩa CD. Cho bé tiếp xúc với một ngôn ngữ mới sẽ giúp trẻ học về những nền văn hóa khác nhau. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người sử dụng hai thứ tiếng có xu hướng có suy nghĩ sáng tạo hơn những ai chỉ nói được một thứ tiếng và rằng chức năng của não cũng sẽ nhạy bén hơn. Sau đây là một số gợi ý giúp bạn dạy bé: – Bé 2-3 tuổi không chỉ phát triển vốn từ vựng mà trẻ cũng bắt đầu nhận ra âm điệu của ngôn ngữ. Bạn càng sớm làm cho trẻ quen với tiếng nước ngoài, điều đó sẽ giúp bé dễ dàng hơn trong việc tiếp thu những tiếng cơ bản. Trước 3 tuổi, khả năng nghe cách nói những âm khác nhau của trẻ là tốt nhất. Đơn giả việc nghe chương trình tivi, nghe nhạc hoặc là hoặc một vài từ mới bằng tiếng ngước ngoài sẽ giúp bé dễ dàng hơn trong việc học tập sau này. – Tạo môi trường học ngẫu nhiên Cách tốt nhất để bé hiểu được tiếng nước ngoài là để bé nghe người khác nói một cách rõ ràng. Nếu bé được nghe những mẩu hội thảo, bé sẽ tiếp thu được những âm mới và cách nói có trọng âm tự nhiên. Trẻ rất thích bắt chước những gì mình nghe được và sẽ nhanh chóng hiểu được nghĩa của những từ và cụm từ ngắn. – Dạy trẻ học từ mới Nếu bạn không muốn những bài học theo kiểu thông thường, bạn có thể nói cho bé những điều cơ bản về ngôn ngữ bằng cách chỉ cho bé thấy đồ vật có thể có hai tên. Khi bé nhìn thấy quả táo bé có thể nói “quả táo” và “apple”. Cách học này sẽ khiến bé thấy thú vị, không nhàm chán. Dĩ nhiên, bé sẽ không thể nói thêm một thứ tiếng khác một cách trôi chảy bằng cách nghe nói từ mới, xem video hoặc hát. Nhưng đơn giản bằng cách cho bé tiếp xúc với ngôn ngữ mới sẽ giúp bé hiểu những cụm từ đơn giản khi bé nghe được. Vì thế có thể bạn không thể trò chuyện ngay với bé bằng tiếng anh, nhưng nếu bạn nói “tree-cái cây” vào mỗi tối khi đi ngủ, bé sẽ hiểu bạn nói gì. Nam Phương ( Parents24) Dạy bé học ngoại ngữ Nếu không muốn dạy bé học theo cách thông thường, bạn có thể chỉ cho bé thấy đồ vật có thể có hai tên. Khi bé nhìn thấy quả táo bé có thể nói “quả táo” và “apple”. Từ 2 đến 3 tuổi, trẻ phát triển những kỹ năng ngôn ngữ rất nhanh và cũng rất dễ tiếp thu bất điều gì trẻ nghe thấy. Bé có thể học để hiểu một từ mới bằng hai ngôn ngữ khác nhau với tốc đáng kinh ngạc. Rất nhiều cha mẹ bổ sung kiến thức ban đầu cho bé với những sách song ngữ, đồ chơi và đĩa CD. Cho bé tiếp xúc với một ngôn ngữ mới sẽ giúp trẻ học về những nền văn hóa khác nhau. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người sử dụng hai thứ tiếng có xu hướng có suy nghĩ sáng tạo hơn những ai chỉ nói được một thứ tiếng và rằng chức năng của não cũng sẽ nhạy bén hơn. Sau đây là một số gợi ý giúp bạn dạy bé: – Bé 2-3 tuổi không chỉ phát triển vốn từ vựng mà trẻ cũng bắt đầu nhận ra âm điệu của ngôn ngữ. Bạn càng sớm làm cho trẻ quen với tiếng nước ngoài, điều đó sẽ giúp bé dễ dàng hơn trong việc tiếp thu những tiếng cơ bản. Trước 3 tuổi, khả năng nghe cách nói những âm khác nhau của trẻ là tốt nhất. Đơn giả việc nghe chương trình tivi, nghe nhạc hoặc là hoặc một vài từ mới bằng tiếng ngước ngoài sẽ giúp bé dễ dàng hơn trong việc học tập sau này. – Tạo môi trường học ngẫu nhiên Cách tốt nhất để bé hiểu được tiếng nước ngoài là để bé nghe người khác nói một cách rõ ràng. Nếu bé được nghe những mẩu hội thảo, bé sẽ tiếp thu được những âm mới và cách nói có trọng âm tự nhiên. Trẻ rất thích bắt chước những gì mình nghe được và sẽ nhanh chóng hiểu được nghĩa của những từ và cụm từ ngắn. – Dạy trẻ học từ mới Nếu bạn không muốn những bài học theo kiểu thông thường, bạn có thể nói cho bé những điều cơ bản về ngôn ngữ bằng cách chỉ cho bé thấy đồ vật có thể có hai tên. Khi bé nhìn thấy quả táo bé có thể nói “quả táo” và “apple”. Cách học này sẽ khiến bé thấy thú vị, không nhàm chán. Dĩ nhiên, bé sẽ không thể nói thêm một thứ tiếng khác một cách trôi chảy bằng cách nghe nói từ mới, xem video hoặc hát. Nhưng đơn giản bằng cách cho bé tiếp xúc với ngôn ngữ mới sẽ giúp bé hiểu những cụm từ đơn giản khi bé nghe được. Vì thế có thể bạn không thể trò chuyện ngay với bé bằng tiếng anh, nhưng nếu bạn nói “tree-cái cây” vào mỗi tối khi đi ngủ, bé sẽ hiểu bạn nói gì.

                                       Nam Phương ( Parents24)

                                         Nguồn: vnexpress.net

Đức Phật Dạy Con Như Thế Nào

450566122_18dedfb00a_o

Đức Phật Dạy Con Như Thế Nào
Gil Fronsdal

(Nguyên tác: “The Buddha as a Parent”, Tạp chí Inquiring Mind, số Xuân 2008)

Ngày nay, hầu như người Phật tử nào cũng biết rằng Thái tử Tất Đạt Đa, tức Đức Phật sau này, đã lìa bỏ gia đình của mình để đi tìm con đường giải thoát vào chính cái ngày La Hầu La — đứa con trai [duy nhất] của Ngài — chào đời. Nhiều người cảm thấy không thoải mái, thậm chí tức giận, trước một hành động mà họ cho là “thiếu trách nhiệm” như vậy. Song, có một điều họ chưa biết, đó là sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật đã trở thành người dạy dỗ chính cho con trai của mình trong suốt thời niên thiếu, kể từ khi La Hầu La lên 7 tuổi, và Ngài đã là một người cha tuyệt vời: La Hầu La đã đạt được giác ngộ ở tuổi mới bắt đầu trưởng thành [20]. Vậy, ta hãy tự hỏi, Đức Phật là một người cha như thế nào? Phương pháp dạy con của Ngài ra sao? Làm thế nào một bậc giác ngộ trao truyền những giá trị tâm linh của mình cho con cái?

Kinh điển không đề cập nhiều đến mối quan hệ cha-con giữa Đức Phật và La Hầu La, nhưng đâu đó có để lại vài mẩu chuyện thú vị về việc Đức Phật đã dẫn dắt con mình như thế nào trên con đường trưởng thành. Các bộ kinh trước đó thường nói về việc La Hầu La đã trở thành đồ đệ của Đức Phật như thế nào, nhưng phần lớn những mẩu chuyện này nằm trong 3 bài pháp mà, nếu ta gom chúng lại với nhau, nó chính là một tiến trình liên tục của con đường dẫn tới giác ngộ: lúc La Hầu La 7 tuổi, Đức Phật dạy cho con về đạo đức; lúc La Hầu La 10 tuổi, Đức Phật dạy cho con thiền; và lúc 20 tuổi, Ngài dạy về tuệ giác giải thoát. Quá trình trưởng thành của La Hầu La, vì vậy, tiến triển song song với tiến trình giác ngộ của Đức Phật.

Khi con trai của tôi tròn 7 tuổi, tôi bắt đầu suy tư về việc làm cách nào để dẫn dắt nó và em trai của nó trên con đường tâm linh. Ít nhất, tôi muốn chúng nó học và thực hành Phật pháp đủ để sau này lớn lên chúng có thể trở về với những tiềm lực đó nếu chúng thích hay cần đến. Tôi cũng nghĩ rằng nếu các con tôi có thể nương tựa nơi Phật pháp, thì sau này, dù đang ở bất cứ nơi đâu, chúng cũng có thể quay về với cái mái ấm đó. Nhất là, vì đối với tôi, gia tài lớn nhất mà tôi có được qua sự thực tập Phật pháp là sự an lạc, thảnh thơi, và lòng từ bi, tôi tự hỏi làm cách nào tôi có thể trao truyền cái gia tài tâm linh đó lại cho thế hệ sau. Được biết La Hầu La bắt đầu được Đức Phật dạy dỗ từ năm 7 tuổi, tôi lục tìm trong những bản kinh tiếng Pali để học lấy những phương pháp mà Đức Phật đã sử dụng để dạy dỗ con của Ngài.

Tôi tìm thấy trong các bản kinh này cách làm thế nào để lại một di sản tâm linh thật đẹp. Sáu năm sau khi Đức Phật rời bỏ gia đình, và một năm sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật trở về kinh thành. La Hầu La, lúc ấy 7 tuổi, theo lời mẹ, chạy đến bên cha để xin thừa hưởng gia tài. Nếu như ngày xưa Thái tử Tất Đạt Đa không bỏ kinh thành ra đi, thì bây giờ La Hầu La đã được truyền ngôi vua. Nhưng là một người đã buông bỏ hết tất cả, sống đời khổ hạnh, Đức Phật có thể trao lại cho con mình cái gì? Đáp lời La Hầu La, Đức Phật quay sang nói với Ngài Xá Lợi Phất (Sariputta), một đồ đệ thân tín của Đức Phật: “Hãy thâu nhận nó.” [Như vậy], thay vì được ngôi vua, La Hầu La đã được thừa hưởng con đường đi của cha mình — con đường dẫn tới giải thoát.

Có lẽ còn lâu lắm con trai tôi mới cạo trọc đầu và khoác lên mình chiếc áo cà sa, nhưng tôi vẫn muốn cho con tôi tiếp xúc với những điều căn bản của Phật pháp, những điều đã giúp tôi thay đổi cuộc đời của chính tôi. Khi tôi đọc những đoạn kinh về cách Đức Phật dạy La Hầu La, tôi ngạc nhiên nhận ra rằng những điều này không những vẫn còn mới mẻ mà còn rất thích hợp với việc dạy con ở nước Mỹ này, trong thời hiện đại này. Thật vậy, những bài pháp này đã trở thành kim chỉ nam cho tôi trong việc dạy con.

ĐẠO ĐỨC

Câu chuyện đầu tiên kể về La Hầu La được Đức Phật dạy về lòng chính trực (integrity) như thế nào. Lúc lên 8 tuổi, La Hầu La đã nói dối. Bài Kinh Giáo Giới La Hầu La (Trung Bộ Kinh, 61) kể rằng sau khi tọa thiền xong, Đức Phật đến tìm La Hầu La. Sau khi mời cha ngồi, La Hầu La lấy một thau nước cho cha rửa chân, theo phong tục hồi đó. Sau khi rửa chân xong, Đức Phật hỏi: “Này, La Hầu La, con có thấy chút nước còn lại trong cái thau này không?”

“Dạ, con có thấy” – La Hầu La thưa.

“Đời của một người tu cũng chỉ đáng bằng một chút nước này thôi, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Tôi tưởng tượng La Hầu La đỏ mặt lên.

Sau đó, Đức Phật hất đổ hết nước trong thau ra và nói: “Đời của một người tu cũng đáng vất bỏ đi như vầy nếu như người đó cố tình nói dối.”

Xong, Đức Phật lật cái thau úp xuống và nói: “Đời của một người tu sẽ trở nên đảo lộn như thế này nếu như người đó cố tình nói dối.”

Và, để nhấn mạnh thêm nữa, Đức Phật lật ngửa cái thau trở lại và nói: “Đời của một người tu cũng trở nên trống rỗng như cái thau này nếu như người đó cố tình nói dối.”

Sau đó Ngài dạy con: “Đối với một người cố tình nói dối, không có một tội lỗi xấu xa nào mà người đó không thể làm. Vì vậy, La Hầu La, con hãy tập đừng bao giờ nói dối, cho dù đó là một lời nói đùa.”

Câu chuyện trên đây nhắc nhở tôi rằng những lời la mắng giận dữ với con cái thực ra chỉ có sức mạnh mà không có nội lực. Đức Phật đã rất bình tĩnh, chọn thời điểm đúng lúc để dạy con mà không trừng phạt hay nổi giận với con.

Sau bài thuyết giảng ngắn mà rõ ràng về việc nói dối đó, tôi tưởng tượng La Hầu La đã lắng nghe cha hơn. Sau đó, Đức Phật chỉ dẫn con làm sao để suy xét mọi hành động của mình. “Cái gương dùng để làm gì?” – Ngài hỏi.

“Bạch Đức Thế Tôn, gương dùng để soi” – La Hầu La đáp.

Đức Phật lại dạy : “Trong khi chuẩn bị làm điều chi bằng thân, khẩu, ý, con phải quán chiếu: hành động này có gây tổn hại cho ta hoặc cho kẻ khác không? Nếu, sau khi đã quán chiếu, con thấy rằng hành động đó sẽ có hại, thì con hãy đừng làm. Còn nếu con thấy rằng hành động đó có ích lợi cho con và cho kẻ khác, thì con hãy làm.”

Tôi chợt nhận ra rằng thay vì dạy cho con mình nhận biết sự khác biệt tuyệt đối giữa đúng và sai, Đức Phật đã dạy cho con mình suy gẫm về lợi ích và có hại. Điều này đòi hỏi cả sự tự tri (self-awareness) lẫn sự đồng cảm (empathy). Đặt nền tảng của đạo đức dựa trên “có lợi” hay “có hại” giúp giải thoát đời sống đạo đức của ta khỏi những khái niệm trừu tượng và những ý niệm chẳng ăn nhập gì tới hậu quả của việc ta làm. “Có lợi” và “có hại” cũng giúp cho con người nhận biết mục tiêu của mình. Những điều ta làm hoặc sẽ đối nghịch hoặc sẽ thuận chiều với con đường ta đang đi.

Phương pháp giáo hoá của Đức Phật khiến cho tôi càng tin tưởng thêm rằng chúng ta cần gieo xuống nơi tâm hồn con trẻ những hạt giống của tình thương, những hạt giống của ý thức về việc mỗi hành động của nó sẽ ảnh hưởng đến người khác như thế nào. Sức mạnh của sự quán chiếu và lòng từ bi sẽ không có được nếu đứa trẻ chỉ biết vâng theo lời của người lớn: “Con hãy biết quán chiếu, và hãy có lòng từ bi!” Những giá trị này chỉ có thể có được qua gương của người khác, nhất là của cha mẹ đứa trẻ.

Đức Phật cũng dạy cho La Hầu La hãy xem xét sau khi làm một việc gì đó, nó có gây tổn hại gì không. Nếu có, thì phải đến gặp một người có tuệ giác và sám hối để tránh lặp lại lỗi lầm trong tương lai. Tôi đã học được cách hướng dẫn con trẻ phát triển lòng chính trực bằng cách nhận ra lỗi lầm của mình. Và lòng chính trực đó tuỳ thuộc rất nhiều vào cách cha mẹ thấy lỗi lầm của con mình ra sao. Cách hành xử của cha mẹ ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển đạo đức của con trẻ: nếu cha mẹ cho con trẻ thấy được là nó có thể tin tưởng mình được, là mình chỉ muốn giúp cho con mình trưởng thành hơn là muốn trừng phạt con, thì con trẻ sẽ trở nên thành thật với cha mẹ của chúng hơn.

THIỀN ĐỊNH

Câu chuyện thứ hai nói về việc Đức Phật đã dạy thiền cho La Hầu La ra sao, để phát triển nền tảng của nội tâm (Trung Bộ Kinh, 62). Lúc đó La Hầu La được 10 tuổi. Câu chuyện bắt đầu trong lúc hai cha con đang đi thiền hành. Trong lúc đi, La Hầu Ha chợt thấy hãnh diện về vẻ đẹp của mình, và tư tưởng đó Đức Phật đã đọc được.

Ngài nói với con: “Nhìn bằng con mắt của tuệ giác, cái thân này không phải là tôi (me), không phải là của tôi (mine), không phải là tự ngã của tôi (myself).” Rồi Đức Phật giảng tiếp: ta phải loại bỏ hết tất cả tưởng, hành, thức cũng như bất cứ khái niệm nào về tôi, của tôi, và tự ngã của tôi. Nghe những lời dạy này xong, La Hầu La cảm thấy hổ thẹn, lui về thiền viện, và không thiết đến việc ăn uống gì cả suốt ngày hôm đó.

Tôi cho rằng đây là sự dạy dỗ căn bản cho con trẻ. Tôi không thể tưởng tượng được một em thiếu niên có thể hiểu được những lời Phật dạy như thế. Tôi nhớ lại, rất rõ ràng, rằng ở vào tuổi đó, đầu óc tôi chỉ toàn nghĩ đến dung mạo của tôi ra sao. Tôi thường nghe nói rằng điều này rất là quan trọng cho tiến trình phát triển của các em về “cái tôi”, và quá trình đi tìm kiếm bản thân mình. Có nên trách một em trai 14 tuổi về những ý tưởng phù du như vậy hay không? Có phải Đức Phật đã xen vào những vấn đề nằm trong tiến trình phát triển bình thường của con trẻ, thay vì để các em thảo luận với nhau? Nếu không có hiểu biết về “cái tôi”, làm sao một thiếu niên có thể phát triển thành một người lớn với sự cân bằng về tâm lý?

Đức Phật trả lời những câu hỏi này qua những gì Ngài đã làm cho con của Ngài.

Tối hôm đó, sau khi bị Đức Phật quở trách, La Hầu La đến xin cha dạy cho mình phương pháp thiền quán hơi thở. Trước hết, Đức Phật dùng thí dụ để minh hoạ làm sao đạt được sự thanh thản trong lúc ngồi thiền. Ngài dạy:

“Con phải thiền làm sao giống như đất vậy: đất không cảm thấy phiền vì bất cứ một thứ gì đổ lên đó. Vì vậy, nếu con tập thiền giống như đất, con sẽ không có cảm giác vui thích hay không vui thích về bất cứ một điều gì. Hãy tập thiền như nước, như lửa, như gió, và như không gian: tất cả đều không cảm thấy phiền bởi những cảm giác vui thích hay không vui thích. Thực tập được như nước, như lửa, như gió, như không gian, tâm của con sẽ không còn vướng bận gì cả.”

Rồi, trước khi dạy cho La Hầu La phép thở, Đức Phật dạy cho con về quán tâm từ như là một phương thuốc giải độc trừ khử ác tâm, về tâm bi để vượt thắng sự tàn ác, về tâm hỷ để thuần phục những sự bất toại nguyện, và về tâm xả để ngăn chặn những bất an, thương ghét.

Sau đó, Ngài mới bắt đầu dạy cho con phép thở qua 16 giai đoạn. Những giai đoạn này chia thành 3 phần: a) tịnh tâm; b) định tâm để nhận biết thân tâm và phát triển tuệ giác; và c) buông xả. Cuối cùng, Ngài nhấn mạnh rằng bằng sự thực tập ý thức từng hơi thở của mình, con người sẽ có khả năng ý thức một cách bình thản hơi thở cuối cùng của mình trước khi từ giã cõi đời.

Khi đọc về cách thức Đức Phật dạy con về phép thở để nhận biết thân tâm của mình, tôi nhận thấy đó cũng là một phương pháp để xây dựng một khái niệm vững chắc về “cái tôi”. Tôi tự nghĩ, phải chăng các em thiếu niên ở thời đại ngày nay hay chấp vào “cái tôi” của mình và có nhiều ý niệm phân biệt mình với kẻ khác, là vì các em không cảm thấy thoải mái với chính bản thân mình và với người khác? Và tôi tin rằng, cái chấp và sự phân biệt ấy sẽ không còn nữa nếu các em cảm thấy an vui được với chính mình cũng như thoải mái với người chung quanh.

Khi giảng dạy thiền cho thiếu niên, tôi nhận thấy khả năng thiền của các em nhảy bực vào khoảng 13-14 tuổi. Có nhiều em có thể nhập thiền rất sâu, tuy rằng các em không duy trì được trạng thái này lâu lắm. Tôi đã biết rất nhiều người trẻ dùng phương pháp thiền định để ổn định tinh thần và tìm về sự thảnh thơi giữa những thử thách của tuổi mới lớn.

Tuy nhiên, thiền quán hơi thở không chỉ ích lợi cho các em thiếu niên, mà nó còn là cuộc hành trình suốt cuộc đời của con người. Đức Phật đã kết thúc bài giảng của mình bằng cách chỉ cho La Hầu La thấy giá trị của việc tập thiền quán hơi thở như thế nào đối với giây phút cuối cùng của cuộc đời mình.

TUỆ GIÁC

Trong đoạn kinh thứ ba và cuối cùng, Đức Phật đã hướng dẫn La Hầu La trả lời một loạt những câu hỏi về tuệ giác giải thoát (Trung Bộ Kinh , 147). La Hầu La đã dâng trọn thời niên thiếu của mình cho con đường đạt đến giác ngộ; trong một đoạn văn, Ngài được xem là một nhà tu gương mẫu và tinh chuyên. Khi La Hầu La tròn 20 tuổi, Đức Phật biết rằng con trai của mình đã gần đạt đến sự giải thoát. Ngài đã làm một việc rất cảm động: Ngài đi bộ cùng với con vào sâu trong rừng. Ngồi dưới gốc một cây đại thụ già cỗi, Ngài đã hướng dẫn La Hầu La một cuộc pháp đàm rất kỹ về thuyết vô ngã. Đối với một người đã đạt đến trình độ tu tập cao như La Hầu La, những tư tưởng nằm sâu trong tiềm thức về cái ngã là chướng ngại cuối cùng của sự giải thoát. Ngồi nghe Đức Phật giảng, La Hầu La đã chứng được tự tính vô ngã của vạn pháp, và đó chính là bước cuối cùng giúp La Hầu La đạt đến sự giải thoát trọn vẹn.

Thuyết vô ngã của Đức Phật không phải là đơn giản. Người ta rất dễ hiểu lầm nó là một triết thuyết trừu tượng, mà không thấy được thực ra đó chính là những lời dạy rất thực tế về việc làm sao để tìm thấy hạnh phúc bằng cách buông bỏ hết tất cả. Đối với tôi, việc Đức Phật dạy con về thuyết vô ngã trong rừng sâu rất cần thiết. Tôi thấy mình có cái nhìn khác khi ở giữa thiên nhiên so với khi ở giữa phố thị. Tôi nhận thấy cảm giác an lạc và thảnh thơi mà thiên nhiên mang lại giúp mình dễ thoát ra được cái “ngã” hơn. Quán chiếu về sự buông xả trong khi đọc muột cuốn sách về Phật pháp khi ngồi ở trong nhà rất là khác với khi mình ngồi dưới một gốc cây. Trong khi đọc bài pháp thứ ba này, tôi chiêm nghiệm được sự quan trọng của việc biết mình (tự tri) giữa khung cảnh thiên nhiên.

Ngày xưa, lúc La Hầu La 7 tuổi, đến xin với cha được thừa hưởng gia tài, Ngài đã không hề tưởng tượng được là 13 năm sau đó, Ngài đã được thừa hưởng một gia tài quý báu nhất mà một người làm cha mẹ có thể để lại cho con của mình. Trong Phật giáo, giác ngộ là hạnh phúc lớn lao nhất. Tôi ước mong con cái của tôi sẽ tìm thấy sự an lạc, thảnh thơi, và an lành trên con đường đi tới giải thoát. Có lẽ, trên con đường trở thành người lớn, chúng cũng sẽ được dạy về đạo đức, thiền định, và tuệ giác [như La Hầu La vậy].
Hoài Hương chuyển ngữ

E-mail: hoaihuong_2003@yahoo.com

Tiến sĩ Gil Fronsdal đang giảng dạy Thiền tại Insight Meditation Center ở Redwood City, California, USA. Ông có vợ và hai con.

Chuyên mục:Giáo dưỡng con trẻ

Viết về cháu Khôi Nghĩa nhân mùa Vu Lan

IMG_0951AViết về cháu Khôi Nghĩa nhân mùa Vu Lan

 

Từ khi loài người có mặt ở hành tinh màu xanh này, tình mẹ con đã có mặt. Các loài có tình thức đều có tình cảm đó, nhưng rõ nét và dễ nhận diện vẫn là tình mẹ con trong cõi giới người ta. Văn chương thơ ca từ xưa đến nay không biết bao nhiêu bài viết về tình mẹ, viết hoài vẫn không hết, vẫn mới, vẫn rung cảm sâu xa. Ai đó mà biết nhớ ơn mẹ, thương mẹ từ trong tâm cảm, lời thốt ra đều rung động lòng người. Có trường hợp lời không nói ra, chỉ trầm tư sâu lắng, vén mảnh y vàng quỳ xuống cúi lạy đống xương hỗn tạp bên đường, mà trong đó chắc có hài cốt của ông bà cha mẹ mình trong nhiều đời kiếp, luân hồi bất tận, tử tử sanh sanh. Hình ảnh của trái tim yêu thương nhân thế và biết ơn đền ơn kia chính là Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni. Hình ảnh đó mỗi khi nghĩ đến đã khiến ta rơi lệ, khơi gợi cho chúng ta biết nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục suốt hơn hai ngàn năm qua.

 

      Tình mẹ vô cùng thiêng liêng, cao quý, dùng mỹ từ hữu hạn của con người diễn tả thế nào cũng không nói hết tình mẹ. Mẹ là chuối ba hương, xôi nếp một , đường mía lau, là bao la như biển thái bình, là tơ trời Đâu La Miên, là vầng thái dương vừa loé lên trong những ngày giông bão, là sợi dây của chiếc diều căng gió lộng giữa bầu trời mênh mông mênh mang……Mẹ là vậy nhưng mà đây đó ( số ít ) cũng có người bỏ con bơ vơ, chạy theo ảo ảnh. Làng Tiên Sơn bên kia dòng sông cạnh chùa, có ai đó bỏ cháu mới lọt lòng mẹ một hai ngày, nhau rốn còn lòng thòng máu me nơi nghĩa trang. Năm ngoái nơi bìa rừng sau chùa ai đó bỏ một cháu còn đỏ hỏn, kiến bò lên đầy cả hai mắt, may mà có người gặp đem về dưỡng nuôi…Và đây là câu chuyện của bé Khôi Nghĩa :

 

        Mùa Phật Đản ở cao nguyên là mùa mưa, năm nào cũng vậy tổ chức tuần lễ Phật Đản rất tốn công sức tiền của, nếu có làm xe hoa, lễ đài. Trong sâu xa ở cõi lòng những người con Phật luôn cầu nguyện, tối 14 sáng rằm trời đừng có mưa để cho xe hoa diễu hành, có năm trời chiều lòng người, nhưng có năm trời mưa vẫn cứ mưa, tuy vậy sức mạnh tinh thần vượt thắng tất cả , trong mưa xe hoa vẫn hân hoan diễu hành, dòng người vẫn bất tận, cha mẹ chở con cầm cờ nhỏ ngũ sắc đội mưa đi theo đoàn xe hoa cổ động reo hò cho ngày Đức Phật đản sanh. Xe hoa có nhiều mà con người tham gia cùng đoàn xe hoa quá ít, sẽ làm cho buổi lễ  tẻ nhạt, “người ngoài cười nụ người trong khóc thầm”. Cái mệt trong tuần lễ Phật Đản cũng nhiều, nhưng niềm hân hoan cũng không ít, tối rằm mọi vui buồn mệt nhọc rồi cũng trôi qua. Từ 08 giờ đến 12 giờ đêm trời mưa liên lỷ, kéo dài, khoảng 1giờ sáng trời quang mây tạnh trăng sáng vằng vặc, trong cái tĩnh lặng của đêm hè, bỗng chuông điện thoại reo, tôi ngái ngủ cầm điện thoại lên bên kia đầu giây một giọng nữ thổn thức sụt sịt :” Lạy Thầy con là một người mẹ bất hạnh, có con mà không nuôi được con vì hoàn cảnh, xin Thầy cưu mang nuôi dưỡng cháu dùm con, con để cháu trước cổng chùa, Thầy ra mau lên ẵm cháu vô chùa dùm con”. Tim tôi đập loạn xạ, run rẩy đi gọi chúng điệu trong chùa và các Phật tử làm công quả dậy ra cổng Tam Quan chùa bồng cháu vào. Lúc bấy giờ là 1giờ 30 sáng, mẹ cháu đem theo cho cháu rất nhiều quần áo tả lót, cả sữa và bình bú nữa. Nằm trên nắp giỏ bằng nhựa, nghe tiếng người cháu khóc lên, trong đêm trường tĩnh mịch của một ngôi chùa núi, bốn bề vắng vẻ tịch liêu, tiếng trẻ khóc làm tim tôi nhói đau, tôi bế cháu lên mà nước mắt lã chã , chạy vô phòng đặt cháu lên giường, cháu lại khóc thét lên, tôi vội vàng pha sữa, sữa nhiều nước ít cháu uống không được lại sựa ra, lần thứ hai nước mắt tôi lại chảy. Bên trong ngực của cháu có lá thư, nội dung cũng giống như lời lẽ nói chuyện với tôi qua điện thoại, đọc thư được biết cháu vừa đúng một tháng 3 ngày. Mẹ cháu chưa đặt tên, và tôi đã nghĩ đến cái tên đặt cho cháu sau này.

 

                  Làm Thầy hay làm cha mẹ ai cũng mong muốn kỳ vọng vào tương lai của con mình, đệ tử mình. Đặt tên là bày tỏ ước vọng đó, tôi đặt tên cho cháu là Nguyễn Nhân Nghĩa. Nhân: được mọi người yêu mến.Nghĩa: được mọi người trung. Nhưng khi trình báo với chính quyền địa phương, vị cán bộ công an lập biên bản trường hợp trẻ bị bỏ rơi viết chữ Nhân khó đọc quá, vị cán bộ hộ tịch đọc chữ Nhân thành chữ Khôi, khi nhận giấy khai sinh cho cháu tôi thấy chữ lót của cháu đã khác,tôi có nói về chuyện đó, vị cán bộ hộ tịch nói để làm lại. Tôi tra lại tự điển Hán Việt thấy nghĩa chữ Khôi:” Cái gì mất mà tìm lại được là Khôi, như khôi phục”. Tôi yên tâm như vậy là được rồi, Nhân Nghĩa thời nay đã mất đi, mai một nhiều lắm rồi, làm cách nào để khôi phục lại cái Nhân Nghĩa đã mất kia là một chuyện đáng làm, do vậy tên cháu bây giờ là Nguyễn Khôi Nghĩa. Cháu khuôn mặt chữ điền, vầng trán cao rộng, tai to có thuỳ châu, mắt một mí, mũi tẹt mà trống, miệng rộng và luôn cười, mỗi khi cười có hai hạt gạo bên khoé miệng. Tóm lại không đẹp mà  dễ thương, ai nói chuyện cháu cũng cười không phân biệt, bình đẳng khi ban phát nụ cười nên được nhiều Phật tử thương mến.

 

       Tôi đã hiểu ra vì sao khi về già văn hào Victo Hugo, chỉ biết sống cho cháu vì cháu, và làm rất nhiều thơ cho cháu. Ông rất hạnh phúc và tự hào tuổi già của mình đã có những đứa cháu yêu quý. Tôi cũng vậy chăm sóc nuôi dưỡng cháu,  và các cô chú công quả lớn tuổi, và cả điệu chúng trong chùa ai cũng cảm thấy hạnh phúc khi được ẵm bồng, nựng nịu cháu. Chúng ta yêu trẻ là yêu cái hồn nhiên ngây thơ của chúng, khi cái tham, cái sân, cái si của chúng còn tiềm ẩn trong tàng thức chưa hiển lộ rõ ràng như khi lớn. Tổ Tỉnh Am có nói trong Văn khuyên phát tâm Bồ Đề một câu như thế này “ Nhỏ thì ngây ngô không biết gì, lớn lên tham dục liền sanh”. Ta yêu trẻ bởi vì trẻ ngây ngô, có cái cười không phân biệt, ta yêu một bậc chân tu cũng là vì lẽ ấy, tu cho giỏi cho đàng hoàng, có giới, có định, có tuệ, ta cũng có nụ cười đẹp như trẻ thơ, có nụ cười bình đẳng ban phát cho tất cả không phân biệt thân sơ.

          Chúng tôi có đôi lúc cũng buồn cười, nghĩ về tương lai đạo pháp luôn có những suy tưởng viễn vông. Ngồi một mình có đôi lúc tôi mơ màng nghĩ đến chuyện đời xưa. Ngày xưa đất nước chúng ta có vua Lý Thái Tổ ( Lý Công Uẩn ) là một vị minh quân hết lòng vì dân vì nước, thương yêu dân như con ruột của mình. Vì sao được như vậy ? Bởi vì chú bé Lý Công Uẩn cũng được mẹ bỏ trước cổng chùa, được Thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi, và sau này lớn khôn được Thiền Sư Vạn Hạnh dạy dỗ, hấp thụ tinh thần từ bi khoan hoà của Đạo Phật nên khi lớn lên, lịch sử sang trang làm vua mà yêu dân như con đẻ của mình. Thiền Sư Ô Sào ( Ô là quạ, Sào là tổ ) một cao tăng, sống vào đời Đường Trung Quốc, cũng được mẹ bỏ trong tổ quạ trước chùa, tu hành nghiêm túc sau này trở thành một Thiền Sư lừng lẫy trong lịch sử Thiền Tông Trung Quốc. Ngài có một giai thoại:”Dấu ấn tuổi thơ được mẹ bỏ trong tổ quạ trước chùa, nên sau này làm Thiền Sư ngài luôn ngồi Thiền trên cây ( chỗ ngồi Thiền trên cây Ngài làm giống như một tổ quạ ) có lần thi sĩ Bạch Cư Dị đi ngang qua ngước mặt hỏi Ngài:” Bạch Sư ! Bí quyết của Phật Pháp là gì?” Ngài trả lời:”Các điều ác không làm – Các điều thiện  luôn thực hiện – Tự làm trong sạch tâm mình – Đó chính là lời Chư Phật dạy” Thi Sĩ Bạch Cư Dị tỏ ý không vui:” Câu Ngài vừa trả lời tôi trẻ lên ba cũng thuộc”. Thiền Sư Ô Sào cười nói tiếp:” Trẻ lên ba học thuộc nhưng ông già 80 tuổi vẫn không làm được” .

 

         Lịch sử là một dòng chảy bất tận không dừng, không ai biết được ai  sau này sẽ làm nên lịch sử. Khéo nuôi dưỡng đào tạo, cọng với âm đức của cha mẹ của người nuôi dưỡng, vụng cũng thành khéo, thông minh trung bình cũng có thể làm nên. Chủ quan, phó mặc không tin nhân quả tội phúc trong khi nuôi dưỡng con, có khi khéo trở thành vụng, thông tuệ trở thành kẻ phá hoại, nặng gánh cho gia đình và xã hội. Ở bầu thì tròn ở ống thì dài, gần mực thì đen gần đèn thì sáng cũng từ ý nghĩa đó.

 

          Vô thường đến đi, ai kịp hẹn ai. Tôi nay đã hơn tuổi ngũ thập tri thiên mạng. Đời người chỉ trong một hơi thở như lời Đức Phật dạy, hơi thở dừng lại trong tích tắc sát na, đã qua đời khác. Nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu viết những dòng chữ này để tặng cho những ai diễm phúc còn mẹ, và cũng nhớ đến mẹ cháu, một người mẹ bất hạnh, không được ẵm bồng nâng niu con, nghe hơi thở thơm mùi sữa của con, được nhìn thấy con cười, được dỗ dành khi con khóc. Chúng tôi không trách móc, chỉ cố hiểu để thương, trong chúng ta có nhiều người lâm vào trường hợp bỏ thì  thương vương thì tội, và luôn tâm niệm sau này cháu lớn khôn, kể về mẹ cháu bằng những lời lẽ thương mến cảm thông nhất. Và riêng tôi ngộ nhỡ vô thường đến bất kỳ, rất mong cháu Nguyễn Khôi Nghĩa được chư vị hữu tâm nuôi giáo dục cháu , biết đâu chuyện đời xưa được lập lại, hi hi .

 

                                                                 Mùa Vu Lan Phật Lịch 2554 – dl 2009

                                                                             Chùa Bửu Minh, Gia Lai

                                                                                     Thích Giác Tâm

Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng

cute-baby11

Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng

Mới đó mà đã hơn 30 năm! Thời gian trôi nhanh thật. Những chú nhóc ngày nào được các bà mẹ, ông bố trẻ lo âu thắc thỏm bế đến tôi thì nay đã lại thấy ẳm những chú nhóc khác- là con của chú- đến nữa rồi… Vẫn những âu lo đó. Vẫn những băn khoăn thắc mắc đó. Dù khoa học kỹ thuật, dù y học đã thay đổi, tiến bộ không ngừng mà tấm lòng người làm cha, làm mẹ thời nào cũng vậy, chẳng mấy chút đổi thay. Còn các bà mẹ, ông bố lúng túng lọng cọng ngày nào bây giờ đã là những ông bà nội ngoại, mà vẫn cứ còn lọng cọng lúng túng như xưa dù tóc đã bạc màu với tháng năm, vẫn tất tả lo toan thay ba mẹ bé bận bịu trăm công ngàn việc.

Nhiều bà nội bà ngoại kêu ca vất vả mà trong ánh mắt như tràn ngập niềm vui bởi đuợc nựng nịu, bồng bế, chăm sóc bé, đôi khi còn không tin tưởng lớp trẻ, bảo chúng nó chẳng biết gì, chỉ biết…đẻ thôi! Thời đại chúng ta bây giờ mọi việc trở nên không đơn giản, hình như còn lắm nỗi khó khăn hơn cho bà mẹ trẻ. Truyền thông tiếp thị đi vào mọi ngõ ngách, vào giấc ngủ, bữa ăn, gây bao nỗi hoang mang. Con người như ngày càng xa rời thiên nhiên, ngày càng  bị cuốn hút vào dòng xoáy của những lệ thuộc, của những nhu cầu giả tạo.  Nhiều ông bố bà mẹ bây giờ mặc sức tranh cãi và thậm chí đem đủ thứ sách trích dẫn Tây, Tàu để giành phần thắng mà cuối cùng chỉ tội nghiệp đứa trẻ bơ vơ hơn bao giờ hết! Mọi thứ cứ như máy móc hoá, kế hoạch hoá. Bố mẹ bận bịu làm ăn, đầu tắt mặt tối, giao cho người khác nuôi con. Tôi có dịp gặp những bà mẹ  cân đong đo đếm đến từng gram bột đường, từng gram trái cây, mà bé cứ ngày còm cõi, bơ phờ; tôi có dịp gặp những bà mẹ có hẳn một thực đơn phong phú tính từng calori, với hằng chục thức ăn thay đổi liên tục trong tuần mà trẻ cứ còi cọc, không phát triển! Trẻ không biết nói, không biết kêu ca, bị ép ăn như một cái máy, ép nghe nhạc cổ điển tậy phương…  Nếu trẻ kêu lên được, tôi nghĩ có lẽ chỉ kêu một tiếng, mẹ ơi, con cần mẹ, con cần mùi mồ hôi của mẹ, cần tiếng ru của mẹ, cần vòng tay của cha, bờ vai của cha. Điều  thú vị là trong khi đó, tại các nước phát triển lại có  phong trào “về nguồn”, sinh đẻ tự nhiên, nuôi con phù hợp với từng đứa trẻ, cho bú sữa mẹ lâu dài, cho trẻ gần gũi với thiên nhiên…

Tôi chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh đã cho tái bản (lần thứ 12) cuốn sách này- được cập nhật và bổ sung đầy đủ- nhân dịp tôi chính thức về hưu như  một món quà nhỏ gởi đến các ông bố,bà mẹ trẻ mới sinh con đầu lòng. Cuốn sách là những lời tâm tình, chia sẻ của một người vừa là thầy thuốc vừa là người cha những năm xưa nay đã trở thành ông nội, ông ngoại của mấy nhóc nhỏ rồi!

Thời gian trôi nhanh thật!

TP. HCM tháng 3-2006
BS Đỗ Hồng Ngọc

Category: Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng  | Tags: BS Đỗ Hồng Ngọc, BS Do Hong Ngoc, Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng

You can follow any responses to this entry through the RSS 2.0 feed. You can leave a response, or trackback from your own site.

3 Responses

  1. Nguyên Thuần nói:

Tháng Năm 13, 2009 lúc 3:52 chiều

Kinh thưa Bác,

Con là Minou – là con gái của “Phan Như”. Năm ngoài me con qua Mỹ có đem theo quyển “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” của bác cùng lời đề tặng cho con. Con rất cảm động và rất muốn gởi lời cảm ơn đến bác. Gần một năm sau, con mới viết được những dòng cảm ơn này gởi đến bác do ba con mới cho con địa chỉ website này sáng nay. Ba con dặn con và chị con nhớ vào đọc thường xuyên để biết rõ hơn chuyện nuôi dạy con.

Con xin được cảm ơn bác đã tặng con một quyển sách rất hữu ích cho những ngày đầu làm mẹ bỡ ngỡ của mình!

Con xin được kính chúc bác và gia đình được nhiều sức khoẻ!

Con,
Minount

  1. admin nói:

Tháng Năm 14, 2009 lúc 8:47 chiều

Bài thấy trên một blog:

Cuốn sách yêu thích của mẹ

Chính là cuốn sách mà mẹ đã trích một phần trong đó làm lời ngỏ cho cuốn nhật ký này. Cuốn “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” của bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc.
Ngay từ hồi nhỏ, mẹ khá là thích đọc. Đọc đủ thứ. Báo có, tạp chí có, truyện tranh có, tiểu thuyết có, truyện dài kỳ có và cả truyện chưởng cũng có. Đến bây giờ mẹ cũng vẫn còn giữ vài bộ truyện tranh (Conan, Songoku), vài bộ truyện dài kỳ thiếu niên (TKKG, Kính vạn hoa, Harry Potter…), vài cuốn tiểu thuyết,… Chỉ có điều, mẹ đọc hay quên, đọc đi rồi đọc lại vẫn thấy như mới!

Vì thế, khi chuẩn bị sinh con, mẹ cũng vừa đi mượn, vừa đi lùng vài cuốn sách làm cẩm nang để chuẩn bị cho con chào đời. Và cuốn sách ấn tượng nhất với mẹ chính là cuốn của bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc.

Cuốn sách này mẹ vô tình tìm thấy được trong tủ sách của nhà mình ở Nam Định. Bìa sách đã cũ, hình ảnh không còn được tươi mới, giấy in đã sờn nhưng không hiểu sao mới đọc lướt vài trang mẹ đã thấy rất ấn tượng. Bác sỹ Ngọc không phải viết theo phong cách của một bác sỹ cho các đồng nghiệp, không phải cho thân nhân người bệnh, cũng không phải theo khuôn mẫu của một sách giáo khoa khô khan. Bác sỹ viết như người bạn viết cho người bạn, người anh, người chú lớn tuổi nhiều kinh nghiệm viết cho những người em bắt đầu làm bố, làm mẹ. Lời lẽ thân thiện, dễ gần, hình ảnh sống động, dễ hiểu, trình bày khoa học, dễ tra cứu. Quả thực, mẹ học được rất nhiều từ cuốn sách và cũng đã nhiều lần cuốn sách đã giải tỏa cho mẹ những ưu tư như chuyện “sa ruột rốn”, chuyện tiêm phòng, chuyện ăn uống,.. của con, rồi cả những hủ tục, những quan niệm sai lầm khi nuôi con của các bà mẹ ngày xưa.

Mẹ rất thích cuốn sách, đọc đi đọc lại nhiều lần, ngẫm nghĩ những điều nằm ngoài chuyên môn mà bác sỹ Ngọc đã gửi gắm. Mẹ cảm thấy việc sinh con, nuôi con ý nghĩa hơn. Mẹ cũng cảm thấy trách nhiệm của bố và mẹ lớn lao hơn khi giờ đây, bố mẹ là người cha, người mẹ và trước kia, bố mẹ cũng là những người con bé bỏng và ông bà nội ngoại đã phải vất vả ra sao mới có bố mẹ, có con như bây giờ.

Mẹ tìm hiểu nguồn gốc của cuốn sách thì hóa ra, đây là cuốn sách mà bố con ngày trước đã tặng cho bác Quý khi bác Quý chuẩn bị sinh anh Dũng (năm 1994). Có lẽ mẹ phải cảm ơn bác Quý rất nhiều vì đã giữ được cuốn sách đến bây giờ để mẹ được đọc, được học cái bản lĩnh khi nuôi con của bác.

Và hình như, đây cũng là cái duyên của bố và mẹ!

Nov 18, 2007

  1. Bac Si Do Hong Ngoc nói:

Tháng Năm 17, 2009 lúc 8:28 chiều

Cam on chau. Bac va Bo Phan Nhu cua chau van thuong gap nhau qua dien thoai, email. Bo chau ngay cang viet hay va viet nhieu.
Bac chuc cac chau khoe, vui.
Bac Ngoc.

( nguồn: dohongngoc.com )

Chuyên mục:Giáo dưỡng con trẻ

Trầm tư 1

Trái đất to rộng, nhưng rồi có ngày ta cũng lại gặp nhau. Do vậy ta hãy chuẩn bị cho cách sống cái ngày tình cờ gặp lại nhau, nhìn nhau mỉm cười được, không ngỡ ngàng, cúi mặt .

Chuyên mục:Trầm tư mỗi ngày Thẻ:

HẠNH PHÚC ĐƠN SƠ

 

clip_image001

 

 

 

 

 

 

 

HẠNH PHÚC ĐƠN SƠ

Các con thương yêu !

Nhiều khi chúng ta có suy nghĩ : “Muốn có hạnh phúc thì phải làm cho thật nhiều tiền ,phải có được bằng cấp hoặc địa vị, chỗ làm mà mình mơ ước . Có người vợ đẹp như tranh tố nữ , có những đứa con dễ thương kháu khỉnh như trong tranh cát tường Trung Quốc . Thực ra những ước mơ đó cũng rất khó nắm bắt, mà nếu nắm bắt được thì cũng rất mong manh dễ vỡ .Riêng thầy niềm hạnh phúc đến rất đơn sơ , nghe giọng tụng kinh trong veo lãnh lót của các sư em các con trong đêm trường tĩnh mịch, buổi chiều ngồi nhìn điệu Thường Lạc ,Thường Minh ,Thường Tín đá bóng sau nhà Tổ , đứa làm thủ môn , đứa làm cầu thủ giành bóng ngã lăn cù trên sân . Nhất là mùa Vu Lan năm nay hạnh phúc ùa về từng ngày, khiến lòng Thầy phơi phới như trẻ ra, các con biết vì sao không? Thầy được đọc các bài viết của các Phật tử trẻ và các sư em các con , viết về Đức Phật về Thầy về cha mẹ. Giới trẻ hiện nay phần đông đã lãng quên nguội lạnh, dửng dưng với đạo hiếu ! Nơi gương mặt hốc hác tiều tuỵ sạm nắng gió sương của các bậc cha mẹ đã nhỏ không biết bao nhiêu là giọt lệ vì những đứa con bất hiếu. Ý thức về điều đó nên chùa mình lễ Vu Lan nào, Thầy cùng với các đạo hữu bằng mọi phương thức tạo cho ngày lễ Vu Lan thành một ngày hội lễ Báo Hiếu không chỉ cho giới Phật tử mà chung cho tất cả mọi người, mọi giới. Những bài viết cho báo tường của các thiếu niên, thiếu nhi Phật tử tại chùa mình , là một trong những phương cách khơi gợi nhắc nhở giới trẻ ở địa phương mình hôm nay.

Thầy sẽ trích một số bài viết cho các con đọc :

Mẹ gần gũi con như trái tim trong một cơ thể , ngọt ngào như đường mía lau, nhân hậu như bà tiên trong chuyện cổ tích, bởi vậy các nhà văn nhà thơ viết về mẹ rất dễ và cũng rất dễ hay. Còn cha thì thường quá nghiêm , nhìn bên ngoài thấy dường như khô khan tình cảm, chỉ biết làm ra tiền để đưa cho vợ nuôi con, con cần tiền chỉ cần xin mẹ và mẹ thì luôn chìu con, do vậy mẹ là bà tiên, còn cha thì dấu mặt sau tờ giấy bạc kiếm được, nên con ít nhìn rõ mặt. Phật tử Nguyễn Thị Như Lan chùa mình đã nhìn tỏ tường mặt cha và ví von cha như một vì sao lạ. Đã so sánh mẹ mình như như một vầng trăng và vầng trăng ấy đã khuất.

“ Tôi thầm trách ông trời sao lại cướp đi của tôi một vầng trăng, nhưng tôi lại thầm cảm ơn ông bởi đã ban cho tôi một vì sao lạ đến như vậy. Có lẽ bố tôi cũng như hàng trăm ngàn vì sao trên bầu trời kia, nhưng ánh sáng dịu dàng mà vô tận ấy không như bất cứ vì sao nào. Hay đó là do trái tim tôi đã tràn ngập bóng hình thân thương ấy. Ngày ngày tôi trưởng thành và thành công trên con đường của mình đã đổi lại những nếp nhăn và mái tóc bạc của bố tôi. Nhưng đó là tình thương mà bố đã dành cho cuộc đời tôi . Hai tiếng “Bố ơi” ngày nào tôi vẫn gọi mà giờ đây tôi vẫn muốn hét lên từ trái tim của mình. Tôi mong muốn hai tiếng “Bố ơi” sẽ dõi bước suốt trên con đường đầy gian khó của tôi để tôi thêm vững bước “ .

Không có người cha nào lại không thương con , nhất là con gái. Nhưng khi có rượu vào rồi thì đứa con gái cưng nhất cũng giống như một con búp bê thôi, cầm ném thẳng tay vào trong góc nhà không thương tiếc . Thản nhiên sai con cầm chai đi mua rượu, đâu biết rằng con mình đã biết cảm nhận biết nhói đau trong trái tim bé bỏng. Ấy vậy mà vẫn không ghét ba , vẫn thầm mong ba sống lại để sai mình đi mua rượu cho ba uống .

Ba ơi ! Bây giờ con lại muốn ba sai con đi mua rượu như ngày xưa, nhiều lần con làm ba cười, cười đến đau cả bụng. Nhớ lại lúc đó khi ba vừa gọi bé ơi là con đã biết sai đi mua rượu rồi, nhưng ba chỉ uống một xị thôi, chỉ một xị đó thôi cũng đủ làm cho gia đình ly biệt. Ba ra đi, trên tay vẫn còn cầm chén rượu đầy. Lúc ở nhà thì uống một xị, chứ có bạn bè rủ rê thì ít nhất cũng là một lít . Uống rượu là vậy nhưng ba không bao giờ đánh mẹ con cả, ba chỉ trút giận lên đầu con thôi. Con biết ba không đánh con mà là rượu đánh. Đau lòng lắm ba ơi! Ba biết không? Thể xác con không đau nhưng tâm con đau lắm, xót xa vô cùng . Con cũng thầm mong ba của các bạn con sẽ không rượu chè như vậy nữa.

Ba mất tôi đi chùa với bà với mẹ , từ đó tôi có đức tin nơi Phật, tôi rất thương Thầy. Những lời dạy của Thầy tôi sẽ gói ghém để làm hành trang trên con đường tu học . Thầy tôi rất hay đau ốm bởi Thầy cũng đã già. Thầy như những cây tre già trong chùa, âm thầm lặng lẽ,chắn che gió bão , cho những búp măng non đang lách mình ra khỏi lòng đất. Những búp măng non ấy đang mỗi ngày một lớn lên trong vòng tay bảo vệ của những cây tre mẹ.

(Phật Tử Thường Nhã Nghiêm)

Diễm phúc lắm mới có cha mẹ nhiều đức tin nơi Phật Pháp và hướng dẫn các con tu học Phật. Thường thường chỉ có Bà và Mẹ là hay dắt con cháu đi chùa lễ Phật, chính những ngày thơ ấu được hít thở không khí trầm hương và chiêm ngưỡng dung nhan từ ái và đẹp như vầng nguyệt của Đức Phật mà hình thành nên tính cách nhân hậu, biết yêu thương của các cháu sau này. Bà và mẹ các cháu không ngờ rằng việc đưa con cháu mình đi chùa đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong tâm của các cháu suốt cả cuộc đời.

Con người ai cũng giống nhau cả , khi sinh ra thì cũng giống như xuất phát từ một đưòng biên, đều đứng trên cùng một ván dậm nhảy, hay cũng đều chạy chung trên một con đường đời . Mọi sự sau này đều do nỗ lực mà có, nếu ai cố gắng ắt sẽ gặp một con đường hạnh phúc , còn nếu như không thì con đường người đó đang đi sẽ trở nên gập ghềnh sỏi đá ,khó khăn .Mẹ tôi cũng vậy , mẹ đã nỗ lực rất nhiều để cho chúng tôi hôm nay được đi trên một con đường bằng phẳng , không sỏi đá , không chông gai mà vẫn trở thành những công dân tốt của xã hội, những người có thể vì người khác giúp đỡ. Thậm chí, con đường dẫn tôi đi tới cửa Phật cũng được mẹ dìu dắt , bảo ban ngay từ những ngày còn thơ.

(Phật Tử Thường Huệ Nghiêm-Nguyễn Thị Phát Lợi)

Thầy không ngờ rằng ở một ngôi chùa quê hẻo lánh như chùa mình lại có những Phật tử trẻ dạt dào tình cảm,văn chương tài hoa như Phật tử Nguyễn Thị Phát Lợi, Nguyễn Thị Như Lan, Thường Diệp Nghiêm, Thường Nhã Nghiêm,Thường Quang Cơ…lại có những Phật tử viết không có văn chương gì hết, nghĩ gì viết nấy viết rất thật .Chính cái thật cái hồn nhiên đó, lời văn hoá ra lại trong trẻo dễ thương .

Ba con thì làm nông còn mẹ con thì đi buôn bán , công việc nào cũng đều v ất vả . Để có miếng cơm manh áo ba phải lặn lội ngoài đồng từ sáng đến khuya mới về cho nên cuộc đời ba rất là vất vả . Ba là người sống nghiêng về thế giới nội tâm , ba rất ghét cảnh đua chen,luồn cúi làm giàu, bởi vì lẽ đó mà suốt cuộc đời ba cực nhọc và lam lũ .Còn mẹ con thì đi buôn bán , tuổi cũng đã cao mà không biết còn nghề nào khác ngoài việc xách xe chạy ngoài đường . Có khi gặp ai bán cà phê hay lúa , mà không có công bốc vác mẹ cũng phải nai lưng ra mà khiên lên xe , khiên xuống xe . Cũng như ba và mẹ, con chỉ mong ba mẹ được khoẻ mạnh sống một cuộc sống an nhàn thảnh thơi. Những ngày ba mẹ đi làm về nhiều lúc đau ốm mệt mỏi , nhất là mẹ vì mẹ đang bị một chứng bệnh là đau khớp xương. Đó là những lúc ba mẹ cần có con bên cạnh để an ủi và chăm sóc cho ba mẹ.
(Phật Tử Thường Quang Cần )

Sống lẻ loi giữa một xóm Đạo Chúa , đức tin với Phật vẫn không hề lung lay, nghiêng ngã suốt những năm tháng dài đạo pháp ít người biết đến. Đó là gia đình bé Duy Thư , Pháp Danh Thường Diệp Nghiêm (15 tuổi) nhà gần núi ven sông , có phải do gần sông nước mà cháu cảm nhận được câu tục ngữ: “Nước chảy đá mòn” đã ví tình mẹ như giòng nước chảy.
Mẹ! Một tiếng gọi nghe sao trang trọng mà cao sang . Thật xứng với tiếng mẹ, bên trong tiếng gọi đó chứa đựng biết bao điều tốt đẹp . Tình thương con của mẹ có bao giờ dừng lại đâu. Cũng như nước chảy vậy: “Nước chảy thì đá mòn “, đá có thể mòn chứ tình yêu thương của mẹ dành cho con thì không bao giờ mòn .
Riêng tôi còn có một vị Thầy. Người tuy không phải là giáo viên .nhưng Thầy đã dạy tôi hiểu được đạo lý của một đệ tử nhà Phật. Cả cuộc đời của
Thầy đều hy sinh cho đại chúng. Từ bao năm qua Thầy đã đưa một ngôi chùa nằm giữa một cánh đồng chè vắng vẻ trở thành một ngôi chùa luôn có đạo hữu đến quy y , tụng niệm. Và cũng từ ngôi chùa đó đã có những bạn trẻ , những con người tiếp tục đi theo bước chân , theo con đường của Thầy đã đi qua .
Có những người trải qua tháng năm dài không hề nghĩ đến chuyện viết lách , chỉ biết mỉm cười và lui cui dưới bếp phục vụ cơm nước cho đại chúng ăn uống tu tập, nhưng gần đến ngày Vu Lan bỗng nhớ đế mẹ già ở dưới quê , cũng cầm bút viết về mẹ.

Mẹ hiền tôi , mẹ goá chồng năm 33 tuổi nuôi bảy người con khờ dại. Cuộc đời mẹ tôi khổ vì chồng vì con, ba tôi hay cờ bạc đánh đập lung tung. Khi ba tôi còn sống mẹ tôi đi giặt đồ mướn để về sinh sống , khi ba mất rồi trong thời chiến tranh tên rơi đạn lạc, mẹ tôi đưa các con vào chùa ẩn náu . Mẹ tôi vất vả sớm hôm dãi dầu mưa nắng không quản nhọc ngày đêm . Ngày thời lên rừng núi để kiếm trái ổi, trái trâm, trái sim và tất cả các thứ trái cây khác trên rừng để về ăn và bán , rồi lại mót khoai lang khoai mì để về ăn, tối thời làm võng để bán nuôi con ăn học. Cuộc đời mẹ tôi tả tơi, tơi tả như vậy mà các con còn làm phật lòng ý mẹ.
.
( Phật tử Pháp Danh: Nhật Hoan, hơn 40 tuổi )
Câu kinh Phật: “ướt mẹ nằm khô ráo phần con” đã lay động đánh thức lương tâm của rất nhiều người con, nhưng vẫn còn những người con chưa hề nghĩ đến cha mẹ. Mẹ mong ước biết bao !Mong con mồng một, ngày rằm chở mẹ đi chùa lễ Phật, già rồi còn có niềm vui nào nữa đâu, ngoài niềm vui chùa chiền ( trẻ vui nhà già vui chùa ).Mắt loà tai điếc Ti Vi, ca nhạc đối với mẹ đâu có nghĩa gì. Các con vẫn không hề nghĩ đến , mẹ vẫn lủi thủi đội mưa đi trên con đường trơn trợt đến chùa.Tuy nhiên vẫn còn những người con sung sướng ngập tràn vì có ba có mẹ đi chùa tu tập để phước lại cho con cho cháu , dõi theo công việc phật sự của cha mẹ làm mà hạnh phúc tự hào.

Năm tháng trôi đi , những nếp nhăn trên mặt ba má tôi đã hiện rõ. Tuổi đã cao, sức yếu nhưng hằng ngày ba má tôi vẫn luôn đi chùa dâng hương cúng Phật. Ngoài ra mỗi khi nhà ai có đám tang, làm tuần hay bốn mươi chín ngày, ba đều theo Thầy lặn lội mưa gió đến tận nhà để hộ niệm cầu siêu, ước mong cho linh hồn người chết được siêu thoát và thảnh thơi nơi chín suối.Giờ đây một tình thương vĩnh cửu luôn nằm trong tâm hồn tôi, đó là hỉnh ảnh của ba má. Hồi đó lúc tôi không nghe lời bị má đánh thật đau nhưng tôi không khóc, còn giờ đây bị má đánh tuy rất nhẹ nhưng tôi lại khóc. Vì sao lại như vậy? Vì giờ đây sức khoẻ của má đã yếu, sức đâu mà đánh tôi nữa nghĩ như vậy mà tôi khóc.

( Đặng Thị Kim Hương- Pháp Danh Thường Quang Vân)

Cha mẹ tôi không đua chen với cuộc sống bên ngoài , nên cũng chẳng cần giàu sang chỉ muốn lo cho con được nên người. Gia đình tôi là một gia đình nhà Phật, nên cho dù cực khổ hay khó khăn đến đâu trong một tháng cha mẹ tôi cũng nghỉ một vài ngày để phụng sự chùa . Thường hay đi chùa nên cha mẹ tôi cũng biết được một số nghi lễ cúng kính, nên trong các đám tang nào cha mẹ tôi cũng tham gia hộ niệm, cũng chỉ mong tìm được chút phước đức cho con cháu.

( Phan Thế Duy Pháp Danh Thường Tánh )

Không ai thương con bằng mẹ , và cũng không ai thương mẹ bằng con. Nhưng rồi theo tháng năm có một hình ảnh khác ngoài mẹ len vào trong tâm tưởng mình, để nhớ để thương và cuối cùng thì bỏ mẹ mà đi theo về nhà họ. Tuy có niềm vui hạnh phúc mới nhưng cũng không thể nào quên được hình ảnh mẹ già . “ Chồng gần không lấy , đi lấy chồng xa , mai sau cha yếu mẹ già, bát cơm đôi đũa kỹ trà ai dâng “. Có chồng mà quá xa về thăm mẹ không phải là chuyện dễ dàng, ngày Vu Lan Báo Hiếu về, bỗng nhớ đến mẹ nhưng không thể nào về thăm được, thấy mình không khác gì trẻ mồ côi.

Thầy kính thương của con !

Thấm thoát mà ngày tháng qua mau, con đi xa đã gần ba tháng và một mùa hạ nữa cũng sắp đi qua. Trời vào thu thật buồn, nắng hiu hắt, gió heo may báo hiệu lễ Vu Lan đã về. Tâm trạng của đứa con xa nhà nào có khác gì một kẻ mồ côi, chiều xuống sao nghe lòng buồn chi lạ!

“Đoái trông muôn dặm tử phần

Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa”

Con ngồi đây mà hồi tưởng lại những tháng ngày đã qua. Mỗi mùa Vu Lan về, con thường hay dắt mấy nhỏ đến chùa để được ngắm nhìn khuôn mặt rạng rỡ của các con khi được cài lên áo đoá hoa hồng. Và riêng con đắm mình trong lời kinh tiếng mõ mà nghe thấm thía lời Phật dạy: “Phận con gái còn nương cha mẹ…” Nghĩ lại về mình con thấy tự bao giờ con luôn sống trong tình yêu thương vô bờ bến của má và chị, mà con thì chưa báo đáp được gì. Chỉ làm cho má và những người thân yêu luôn lo lắng cho con, má con không hề đòi hỏi con phải làm gì cho má , chỉ mong được có con ở gần bên được nghe con nói, được thấy con cười là má đã vui lắm rồi. Một ước muốn giản đơn như vậy nhưng con đâu có làm được.

( Phật tử Pháp Danh : Thường Duyên)

Chưa có lúc nào hình ảnh tảo tần lam lũ ,thầm lặng chịu đựng , hy sinh khổ đau cho dân tộc cho gia đình của người mẹ Việt Nam , hiện về trong tâm Thầy rõ nét như lúc này. Mỗi người mẹ mỗi hoàn cảnh , ít có người mẹ nào được hạnh phúc về đường chồng con. Phật tử Bùi Thị Tiên đã viết về mẹ mình.
Thưa Thầy ! Con nhận thấy mẹ con là người phụ nữ bất hạnh nhất đó Thầy . Bà ngoại mất sớm mẹ đã thiếu tình thương từ nhỏ, sống trong cảnh mẹ ghẻ con chồng thật tội nghiệp. Lớn lên có chồng cũng do người khác sắp đặt cho mình, mọi cử chỉ hành động đều theo sự sắp đặt không có một chút tự do. Cứ tưởng đâu sau này mẹ sẽ được bù dắp chút ít về con cái , nhưng không ngờ hai em trai con mất cùng một lúc , khiến mẹ con càng đau khổ hơn . Con thương mẹ nhiều lắm nhưng không biết làm cách nào để giành bớt cái khổ cho mẹ. Em mất con mới đến chùa đọc kinh cầu Phật, từ những buổi nghe Thầy giảng dạy trên chánh điện , tình thương mẹ ở nơi con được vun đắp nhiều hơn nữa, lan đến những em bé mồ côi những cụ già đơn độc.
Đạo Phật là đạo Từ Bi, cho nên luôn tôn trọng mạng sống mọi loài. Bởi vậy có những gia đình thờ Phật và nhận mình là Phật tử , vì đàn con phải mưu sinh bằng nghề săn bắt hoặc chài lưới cá , lòng họ cũng luôn bị ray rứt dày vò giữa chân lý đạo và nghề nghiệp đang làm.
Biết là con nhà Phật thờ Phật , nhưng vì đàn con ba tôi phải ra biển đánh cá , bắt tép đem về để mẹ đi bán mua gạo nuôi con ăn học. Mỗi khi đi đánh cá về không hiểu sao lòng ba không vui, ba đi uống rượu thật say và khi về với gương mặt rất buồn. Thấy vậy tôi chảy nước mắt , có lẽ ba buồn vì nghĩ rằng mình là con Phật tại sao lại đi chài lưới.
( Phật tử Nguyễn Thị Tâm – Thường Lập Nghiêm )
Tuổi 18 nhưng không đua đòi như các thiếu nữ khác , hướng về nội tâm, luôn tự vấn mình về thân phận của kiếp người. Nhìn sâu sắc nỗi khổ ở nơi thân của mẹ, và nỗi khổ sâu kín trong lòng không thể nói ra của mẹ mình và mẹ của tất cả.Người viết , viết riêng cho mẹ mình nhưng khi ta đọc văn , ta thấy bóng dáng mẹ ta trong những dòng chữ đó . Lời văn mượt mà quý phái .
Mùa Vu Lan lại về, mùa để cho tất cả mọi người luôn ý niệm về chữ Hiếu . Phải chăng con người được sinh ra và lớn lên để làm những việc mà tạo hoá đã ban cho . Đó là một quá trình sống thật dài và có mấy ai biết được vì sao ta lại được sinh ra , vì sao ta lại được sống và được hưởng những niềm vui , cũng như những nỗi buồn theo dòng thời gian. Giá trị thật sự của con người là phải sống , phải biết hướng về cội nguồn , hướng về đấng sinh thành đã sinh ra ta, đã tặng cho ta một hình hài, một trí não, để ta có thể nhìn nhận cuộc đời cho riêng mình.
Chín tháng mang nặng đẻ đau , mẹ phải chịu nhiều đau khổ để tượng nên một hình hài con người. Những nhọc nhằn gian nan in hằn trên cơ thể mẹ , vầng trán ấy, những nếp nhăn ấy đã bào mòn đi tuổi thanh xuân thời con gái đẹp đẽ. Bàn tay ấy , đã sạm đen đi vì những cái nắng gay gắt cháy da . Mái tóc đã pha sương , lốm đốm những sợi bạc khiến con thật sự đau lòng. Bàn chân mẹ đã ngược xuôi trên khắp nẻo đường cơm áo, để mong cho con mình được ấm no. Phải hiểu rằng tất cả những người mẹ đều giống nhau ở đức hy sinh.
(Phật tử Thường Quang Cơ )
Đức Phật dạy ở đời có hai hạng người được gọi là có sức mạnh. Hạng thứ nhất là hạng người không bao giờ gây ra tội lỗi. Hạng thứ hai là người lỡ gây ra tội nhưng ý thức được tội lỗi, ăn năn sám hối không bao giờ tái phạm lại nữa. Có những thanh thiếu niên, với những hành động quậy phá nghiêm trọng, nếu chúng ta không đem tâm hiểu biết thương yêu để đến với các cháu và tìm mọi phương tiện khéo léo để hướng các cháu có nhận thức tốt mà sửa đổi. Nếu dùng tâm nóng nảy mà trừng phạt thì cách duy nhất là đưa các cháu vào trại cải tạo, nhưng đó không phải là giải pháp tốt . Duyên lành Phật pháp đã khiến các cháu hồi tâm , đây là lời các cháu tâm sự với mẹ.
Do con mang tâm niệm ích kỷ nên sống trong cảnh thù hận, giận hờn.Lấy bạo lực làm niềm vui, lấy thù hận làm lẽ sống. Con đâu biết rằng cái chúng con gọi là niềm vui ấy chính là nước mắt của mẹ.
Từ khi con cất tiếng khóc chào đời đ ến nay đã mười bảy năm trời, trong mười
bảy năm trời dài đằng đẳng mẹ đã chăm sóc , lo lắng cho con nhiều biết dường nào. Ngoài những vất vả , cay đắng ra thì mẹ chẳng nhận được gì hơn nữa cả. Vậy mà khi chúng con lớn khôn đã không nghĩ đến công ơn nuôi dưỡng , không mang lại niềm vui, hãnh diện về cho gia đình. Ngược lại con đã làm nhiều điều trái ngang , khiến ba mẹ phải mang tiếng với bà con xóm làng .
Cũng may nhờ Đức Phật một đấng từ bi,nhờ Thầy ân cần phân tích khuyên bảo . Con rất ân hận về những việc đã làm trước nay, cuộc sống của con vô nghĩa đến dường nào khi không biết được hiếu đạo của người làm con.
(Phật tử Tạ Tấn Vi )

Cha tôi là một người rất mực thương con , ít khi nào tôi thấy cha tôi la rầy tôi. Chỉ có những lúc tôi không nghe lời, thì cha tôi mới lấy roi vụt cho vài cái đỡ tức. Nhiều lúc đau quá tôi cũng không dám khóc , vì sợ cha tôi buồn . Tôi thương cha tôi nhất trên đời , cha tôi là niềm vui và hạnh phúc cho cả gia điình . Nhưng niềm vui và hạnh phúc đó chẳng được bao lâu, thì cha tôi mất sau vụ tai nạn xảy ra. Để lại mẹ già, vợ yếu , con thơ . Cha tôi mất đi là tổn thất lớn cho gia đình, một đời mẹ chưa khi nào thấy thanh thản an nhàn cả . Ba mất mẹ lâm vào cảnh khó khăn ,lam lũ nuôi mẹ chồng , nuôi con ăn học.Nhưng vì mê chơi quá , theo bè bạn gây ra nhiều chuyện đáng trách và bỏ học, làm cho mẹ khóc hết nước mắt.
Trong cuộc sống đời thường , đôi lúc chúng ta vấp phải lầm lỗi quá nghiêm trọng,
mà cứ ngỡ rằng không bao giờ hối cãi được. Nhưng từ khi được Đức Phật và Thầy nâng đỡ dìu dắt, giảng dạy nhiều lần tôi mới hiểu rõ ơn cha nghĩa mẹ không gì sánh nổi . Tôi đã rút ra một bài học về phận làm con .
(Phật tử Bùi Minh Hùng )

Truyền thống phương đông rất coi trọng vai trò của người Thầy ( Quân,Sư , Phụ ) Vua là trên hết, rồi tới Thầy mới đến Cha . Mà nhất là vị Thầy hướng dẫn tâm linh tu tập, vị trí hết sức đặc biệt trong lòng tín đồ đệ tử . Người cha sinh ra mình trong gia đình huyết thống là người cha thứ nhất. Còn người Thầy trong đạo là vị cha thứ hai trong gia đình tâm linh của mình.

Trong tôi chỉ có vị Thầy mà tôi hằng thương kính, cảm ơn trời Phật đã cho tôi được biết Thầy biết Phật, và nhờ mẹ tôi được gần Thầy . Tôi được biết Thầy từ năm 6 tuổi , cho đến bây giờ càng nghĩ tôi lại càng thương Thầy hơn. Thầy tôi là người hay suy nghĩ lo lắng nhiều cho Phật Pháp , cả cuộc đời Thầy đều hy sinh cho đại chúng , có phải vì vậy không mà thầy hay ốm đau ? Với thân thể gầy gò như vậy mà Thầy có ý chí thật sắt đá . Chùa tôi ngày xua rất khổ, nghĩ lại mà tội cho Thầy . Thầy đã cỡi xe đạp để đi quyên góp từng đồng xây tượng Phật Bà Quan Âm , lúc ấy thật khó khăn. Tôi còn nhớ lúc tôi được 10 tuổi thì Thầy đang xây nhà Tổ , khi xây nhà Tổ xong Thầy tôi mặt mày hốc hác xanh xao , người gầy nhom da thì đen sạm . Trên con đường làm đạo Thầy tôi rất khổ , nhờ sự khổ nhọc của Thầy tôi nên cơ ngơi chùa mới được như ngày hôm nay , để cho bà con Phật tử có nơi tu tập .
Ngoài Thầy tôi ra tôi còn một người mẹ nữa : “Ở nhà, tôi là đứa con hay tự ái và ngang bướng nhất . Tôi còn nhớ có lần khi đi học mẹ đã nhắc tôi mang mũ và đem theo áo mưa , lỡ khi trời mưa , nhưng tôi đã không nghe. Đến khi tan học bỗng có đám mây đen kéo lại và mưa thật to, tôi không sao về được, Trong không gian ẩm lạnh chỉ còn mình tôi, lúc này tôi run sợ và oà khóc thật to, thật hối hận khi không nghe lời mẹ . Nhìn ra xa thấp thoáng bóng dáng ai như mẹ mình . Trời ơi, đó chính là mẹ mình ! Tôi đã ào tới ôm mẹ và lòng vô cùng hối hận. Mẹ ơi !
( Phật tử Thường Hương Nghiêm )
Thầy khuyên dạy con từng điều , ánh mắt Thầy ánh lên bao tình thương, vẻ mặt Thầy nhân hậu và phúc đức. Khi con mười ba tuổi, còn tuổi ăn tuổi chơi, đã nguyện xin thầy học đạo. Thầy cười nói: “Từ từ đã con, kiếp trước đã từng là Thầy trò rồi hay sao mà kiếp này lại chịu xuất gia theo Thầy. Con có quyết tâm không ? “. Tự đáy lòng con bỗng nói ra năm chữ : “ Dạ thưa Thầy có ạ !”.
(Phật tử Thường Thảo Nghiêm )

Và hai sư em các con mới mười tuổi, cách đây bốn hôm sư anh Thường Chiếu các con vừa cạo tóc xong , hai chiếc đầu nhẵn bóng vào đoàn quán ngồi hì hục viết về Thầy. Nhất là thiện chí của Thường Tín , ăn cơm vừa xong bỏ chén đũa vào bàn viết tiếp, Thường Tín không phải là không thông minh, nhưng ham chơi và lơ đễnh lắm nên học dở. Cùng một tuổi nhưng Thường Minh già dặn hơn Thường Tín nhiều phương diện, luôn chú tâm vào việc học, những lần Thầy thuyết giảng luôn để ý lắng nghe,và viết bài cũng được lắm ! Hai bài viết của Thường Minh, Thường Tín Thầy chép nguyên văn không thêm bớt gì hết, chỉ sửa lỗi chính tả.

( Sư em Thường Lạc có viết về Thầy nhưng em đã bỏ thất lạc mất )

Khi tôi được 4 tuổi , thì mẹ tôi dẫn tôi qua chùa để biết Thầy biết Tổ, biết Phật pháp. Khi tôi 5 tuổi tôi bị xe tông, tôi nghĩ chắc Phật Bà Quan Âm thương xót tôi nên cho tôi qua khỏi ách nạn này. Cũng vì lí do đó tôi đã chọn một con đường chân chính cho bản thân của mình. Bây giờ tôi đã đi vào cửa Phật, làm đệ tử của Phật, làm đệ tử của Thầy, coi như tôi là con Phật, con Thầy. Tôi đã bỏ hết tất cả để xuất gia theo Phật, trước khi xuống tóc cho tôi thì Thầy có đọc một bài thơ như sau:

“Bỏ cái đẹp trần thế

Cắt đứt dây ái ân

Đi trên đường của Bụt

Nguyện độ hết xa gần”

Thầy tôi rất hay bị bệnh , có một thời Thầy tôi mắc phải bệnh bao tử , mới gọi điện cho sư anh Thường Chiếu ở Huế về để chăm sóc nuôi dưỡng Thầy già yếu. Những khi tôi bị bệnh Thầy còn mua Thuốc cho tôi uống được , chớ Thầy mà bị đau thì tôi chẳng làm gì được cho Thầy bớt bện, tôi phải đành bó tay.Bởi vì tôi còn quá nhỏ chưa đủ tuổi để làm chuyện này. Nhưng hiện giờ thì Thầy đã bớt bệnh, Thầy trò chúng tôi sống thanh tịnh an nhàn . Chúng tôi sống như một gia đình đầy đủ hạnh phúc chẳng có điều gì khiến cho chúng tôi buồn phiền cả.

(Điệu Thường Minh)

Gần đến mùa báo hiếu mà tôi không có gì để đền đáp công ơn của cha mẹ nuôi dưỡng tôi khôn lớn cho đến bây giờ . Buổi tối tụng kinh tôi thấy đức Phật dạy không có cái gì lớn bằng công lao của cha mẹ.

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Đấy là ca dao nói về cha mẹ đã nuôi con.

Trong kinh Đức Phật dạy chỉ đi tu mới đền đáp công ơn của song thân nuôi dưỡng , nhờ Mẹ Ba tôi mới hiểu đạo Phật nên tôi mới chọn lựa một con đường tu tập , để đi tu làm con Phật con Thầy , đấy là ước mong sâu sắc nhất của tôi . đến ngày lễ Vu Lan tôi cũng dành dụm ít tiền để mua quà báo hiếu cho cha mẹ. Tôi nguyện một lòng không làm cho cha mẹ , và Thầy buồn phiền nữa. Tôi chỉ làm cho vui lòng mà thôi . Từ nay trở đi tôi ráng cố gắng học giỏi và không làm cho Thầy tức bực và la rầy , khi Thầy la Thầy cũng đau lòng lắm. Khi làm lễ Thầy cũng dùng cái kính lão để nhìn kinh mà tụng, tôi biết Thầy tôi đã già . Cầu ân Tam Bảo , Chư Phật gia hộ cho cha mẹ tôi và Thầy được sống lâu trăm tuổi.

( Điệu Thường Tín )

Đức Thế Tôn dạy Tâm chúng ta là Tâm con vượn, còn Ý thì như con ngựa. Lăng xăng chuyền nhảy không khi nào dừng, không khi nào chịu đứng yên, dễ thay đổi. Khổ đau do vậy mà xảy ra. Tấm lòng mẹ cũng vậy, rất sợ con mình đánh mất bản tính hiền lành và chân chất của làng quê. Trước khi đưa con lên phố thị ( để học để làm ) với rất nhiều ánh đèn màu mờ tỏ và nhiều cám dỗ xa hoa , sợ con hư đã thống thiết căn dặn con mình. Âm hưởng của bài thơ có khí vị bài Chân Quê của thi sĩ Nguyễn Bính .

Chốn đô thành nhộn nhịp những chuyến xe

Cuộc sống bon chen, lòng người chật hẹp

Quê mình nghèo tình người không đóng khép

Như câu dân ca mẹ hát đêm nào

Giữa chốn thị thành tấp nập ồn ào

Luôn nhớ nghe con một điều giản dị

Bản chất con người vốn là như thế

Đừng thay đổi nhiều dáng vẻ quê hương

Lời mẹ dặn con trước lúc lên đường

Con vẫn mãi khắc ghi trong cuộc sống

Nhưng mẹ ơi ! Giữa cuộc đời biến động

Con sợ một ngày chân lí sống đổi thay .

( Thường Dung Nghiêm- Nguyện Thị Kiều Hạnh)

Bài thơ đã khép lại những ý tưởng của Thầy và trò , Thầy thật rất bất ngờ .

Đức Phật dạy chúng ta nên tập lắng nghe cho kỹ và nhìn thật sâu.Quả thật như vậy nếu không nhìn thật sâu làm sao Thầy phát hiện được những Phật tử trẻ ở một vùng quê hẻo lánh, thiếu thốn vật chất , lại tràn đầy cái tâm thương yêu hiểu biết , chuyển tải được ý tưởng của mình với văn chương trong sáng tài hoa đến vậy. Thầy đã đãi cát và tìm thấy đựơc vàng, Thầy trân trọng và quý vô cùng .

Mùa Vu Lan năm nay Thầy rất hạnh phúc và muốn chia sẻ niềm hạnh phúc đơn sơ đó với các đệ tử ở xa của Thầy, bằng những bài viết của các đệ tử ở gần Thầy.

CHÙA BỬU MINH, GIA LAI
Mùa Vu Lan Phật Lịch 2546 –DL.2002
Thầy của các con
Thích Giác Tâm

Thế giới bí mật của trẻ em

trecon

Thế giới bí mật của trẻ em

Thérèse Gouin – Décarie
Nguyễn Hiến Lê dịch

Giới Thiệu

Nghề làm cha mẹ là nghề xuất hiện sớm nhất, ngay từ khi có loài người, và phổ biến nhất vì có những người sống độc thân cũng muốn có con nuôi. Nhưng điều ít ai nhận định được là nghề đó cũng quan trọng nhất và khó nhất.

Quan trọng nhất chẳng phải chỉ vì cha mẹ có nhiệm vụ đào tạo con người, hễ con người hư hỏng thì xã hội sẽ tan rã vì trong bất kỳ tổ chức nào, hoạt động nào, yếu tố “người” vẫn là yếu tố quyết định ; mà còn vì lẽ cha mẹ dạy dỗ con ra sao thì lớn lên, nó lại dạy dỗ con nó như vậy, thành thử nếu đời trước mà lầm lẫn – hoặc nghiêm khắc quá tới nỗi con cái sinh lòng oán hận, hoặc nhu nhược quá, để chúng hư đốn – thì cái hại có thể truyền đến đời sau, đời sau nữa. Chúng ta thường nói tới cái “nếp” nhà – nếp có thể tốt mà cũng có thể xấu – là nghĩa vậy.

Khó nhất vì trẻ là cả một thế giới bí mật : dưới một tuổi, nó chưa biết nói, chỉ biểu lộ cảm xúc, ý muốn bằng nụ cười tiếng khóc, ta khó đoán được ; hồi hai ba tuổi nó nói tuy gọi là sõi rồi, nhưng ngôn ngữ vẫn có những ý nghĩa khác ngôn ngữ của ta nên nhiều khi ta hiểu lầm, lại thêm phản ứng của trẻ mỗi đứa một khác, mỗi giai đoạn một khác, đúng như nhiều bà mẹ thường nói : “không biết đâu mà mò”.

Mà lạ lùng thay, nghề nào loài người cũng lưu lại kinh nghiệm cho đời sau – những sách thuốc, sách về nông nghiệp đã có từ mấy ngàn năm trước – duy có nghề làm cha mẹ, vừa phổ biến, quan trọng và khó như vậy thì trước thời hiện đại chẳng thấy có một cuốn nào cả. Trong hai thế kỷ trước, một số nhà giáo dục lác đác viết được ít cuốn, nhưng toàn là bàn về đạo đức, về lý thuyết : phải tập cho trẻ những đức nào, bản tính của trẻ là thiện hay ác, giáo dục có nghĩa là uốn nắn hay chỉ giúp cho trẻ phát triển theo thiên nhiên… ? Cơ hồ như cổ nhân cho rằng hễ có con thì tự nhiên ai cũng biết cách nuôi con, dạy con chẳng cần phải học ; và thế hệ trước có chút kinh nghiệm nào thì chỉ truyền miệng lại cho thế hệ sau, không ai gom lại thành hệ thống mà viết thành sách chỉ sự phát triển về thể chất cùng tâm lý, tinh thần của trẻ ra sao.

Mãi tới cuối thế kỷ trước, người phương Tây mới bắt đầu dùng phương pháp khoa học nghiên cứu tâm lý của trẻ, và trước thế chiến vừa rồi, mới có những cuốn trình bày các trắc nghiệm để tìm hiểu trẻ. Nhưng những tác phẩm đó hầu hết đều khô khan, có tính cách chuyên môn, viết cho các nhà giáo dục hơn là các bậc cha mẹ.

Theo chỗ tôi biết, cuốn đầu tiên viết về sự phát triển tâm lý của trẻ một cách giản lược nhưng đầy đủ, sáng sủa mà vui, ai có trình độ Trung học cũng có thể hiểu được, là cuốn Le développement psychologique de l’enfant của bà Thérèse Gouin-Décarie mà hôm nay tôi xin giới thiệu với độc giả. Bà là người Gia Nã Đại gốc Pháp, làm Giáo sư ở Đại học Montréal, năm 1952-1953 viết một loạt bài đọc trên Đài phát thanh Gia-Nã-Đại. Những bài này được hoan nghênh nhiệt liệt và thính giả yêu cầu bà in thành sách, nhà Ottawa xuất bản năm 1953, rồi nhà Fides ở Montréal và Paris tái bản không biết lần thứ mấy năm 1969.

Trong hai chục bài, bà nêu lên cả trăm vấn đề, dắt dẫn chúng ta vào cái thế giới bí mật và kỳ thú của trẻ, từ khi nó còn là cái thai cho tới khi nó tới tuổi dậy thì. Mỗi bài trình bày một giai đoạn phát triển về tinh thần, tâm lý của trẻ ; hầu hết bài nào bà cũng dùng những phát kiến, những thí nghiệm mới nhất của các nhà chuyên môn hiện đại về tâm lý nhi đồng, như của Arnold Gesell, Margaret Ribble, Jean Piaget, René Spitz…

Chỉ bỏ ra một buổi đọc tác phẩm của bà, chúng ta cũng hiểu được trẻ hơn là nuôi nó trong 10 năm. Chúng ta hiểu được :

 

  • Tại sao hồi hai tuổi em bé nào cũng luôn miệng “không, không”, bảo nó làm gì nó cũng phản kháng, dỗ dành nó cách nào nó cũng cự tuyệt ;
  • Tại sao hồi bốn tuổi, em nào cũng suốt ngày hỏi “Tại sao?” ;
  • Tại sao cứ sau một giai đoạn trẻ rất ngoan ngoãn dễ bảo, lại tiếp theo một giai đoạn nó rất bướng bỉnh, khó dạy ;
  • Tại sao có hồi nó rất nhút nhát, lại có hồi rất hay gây lộn ;
  • Tại sao trẻ mười, mười một tuổi suốt ngày ở ngoài đường, nghe lời bạn bè hơn là nghe lời cha mẹ, tập tành hút thuốc, chơi thò lò ; mà chưa nhất định là hư hỏng ; vân vân…

Chúng ta sẽ biết ngôn ngữ, trí tuệ, óc tưởng tượng, ý niệm về đạo đức, tinh thần hợp quần, tinh thần tự do và độc lập… xuất hiện vào thời nào và phát triển lần lần ra sao.

Và chúng ta sẽ ngạc nhiên nhận ra điều này là tất cả những sự phát triển đó, tất cả những phản ứng của trẻ, mặc dầu mỗi đứa mỗi khác, mỗi tuổi một khác, nhiều khi kỳ cục, ta không hiểu nổi, thực ra đều có lý do, đều theo một luật thiên nhiên bất di bất dịch, là trẻ luôn luôn tập thích ứng với thế giới bên ngoài mà đồng thời vẫn giữ cá tính riêng, lần lần tự lập để thoát li được cha mẹ.

Hiểu như vậy thì khi nó bướng bỉnh, khó dạy, ta không bực mình nữa, có phần còn mừng vì thấy nó ngây thơ vụng về nhưng đã tiến bộ, cá tính đã bắt đầu biểu lộ ; và ta sẽ nhận ra bổn phận của ta là giúp cho nó sớm tự lập, mà khi nó tự lập được rồi, tách ra khỏi ta để sống đời của nó, lo cho con nó cũng như ta đã lo cho nó, thì lẽ đó chỉ là tự nhiên, như tục ngữ đã nói : “Nước chảy xuôi chứ không bao giờ chảy ngược”. Cái dòng sinh sinh hóa hóa bất tuyệt nhất định phải như vậy. Con ta không phải là của ta: “Trời Phật – hoặc xã hội, dân tộc – tạm gởi nó cho ta đấy”. Muốn tập cho nó quyến luyến với nguồn thì chỉ có cách một mặt chính ta phải nghĩ tới nguồn, mặt khác chỉ nghĩ tới hạnh phúc của nó thôi.

Tuy nhiên, chỉ theo luật thiên nhiên thì còn khiếm khuyết, ta còn phải tập cho trẻ “vừa nhận mà vừa cho”, biết hưởng những cái vui thì cũng phải chịu những cái khổ vì đời sống không phải chỉ gồm toàn những vui thích, mà sống không phải là chỉ để hưởng lạc.

Về điểm đó, như các nhà giáo dục danh tiếng khác, chẳng hạn bác sĩ Benjamin Spock, bà Thérèse Gouin Décarie có một quan niệm xác đáng, rất mực yêu trẻ, khoan dung mà vẫn nghiêm. Từ sau thế chiến thứ nhất, cá nhân có xu hướng phóng túng, mọi kỷ luật bị coi là bó buộc, tôi thấy lời khuyên của bà đáng cho chúng ta suy ngẫm, nên xin dịch tác phẩm của bà, sau khi sửa đổi một chút cho hợp với nước mình, để tặng các bậc cha mẹ, nhất là những vị còn trẻ, hoang mang, thấy nhiệm vụ của mình quá khó và quá nặng. Những vị đó đọc kỹ rồi chiêm nghiệm thì sẽ đỡ bạc đầu, như tác giả nói.

Saigon ngày 15-3-1972.

NGUYỄN HIẾN LÊ

Chuyên mục:Giáo dưỡng con trẻ

Thi sĩ Bùi Giáng và tình cảm với các Sư Cô

Thi sĩ Bùi Giáng

 

và tình cảm với các Sư Cô

 

 

 

         Một con người xuất khẩu thành thơ, đi mua chịu rượu và đồ nhậu, ghi vào sổ nợ cũng ghi bằng thơ, viết văn và làm thơ với một tốc độ kinh hồn, ông để lại cho nền văn học Việt Nam một số lượng tác phẩm đồ sộ, giá trị. Vậy mà số phận thật hẩm hiu, ông có vợ, có người yêu nhưng không tìm thấy hạnh phúc, ông chia tay với vợ, với người yêu và giong ruỗi đi tìm, đi tìm giai nhân khắp bốn phương trời, tìm trong mộng, trong thi ca và trong cả những ngôi chùa mà ông có duyên đến và được đón nhận, không mặn nồng  nhưng vẫn không lạt lẽo. Bởi vì ông có thời dạy văn chương ở Đại Học Vạn Hạnh của Phật giáo ở đường Trương Minh Giảng Sài Gòn, với lại ông có điên điên nhưng lành không phá phách, nên những ngôi chùa ông đến đều cho ông ăn cơm, thỉnh thoảng có cho tiền nữa. Ngôi chùa ông thường đến là ngôi chùa Dược Sư ở đường Lê Quang Định Gò Vấp, Thành Phố Hồ Chí Minh, nơi đó có phòng phát hành kinh sách Phật Giáo, có Sư Cô Như Hạnh phụ trách. Tôi mê sách nên mỗi khi đi Sài Gòn là luôn ghé lại chùa Dược Sư, có quen Sư Cô Như Hạnh, tôi thường ghé phòng phát hành kinh sách và Thi Sĩ Bùi Giáng cũng hay ghé lại, bởi vậy tôi có gặp ông. Hôm đó ông tới ( xin lỗi tôi không còn nhớ rõ năm ) và cũng đúng lúc nhà chùa thọ trai, nên Sư Cô Như Hạnh vô bên trong nhà trù bưng ra đĩa cơm mời ông, ăn xong còn dúi tiền vào tay ông nữa. Trên bàn có viết và giấy, ông tự tay lấy viết và hý hoáy viết. Tít tắt ông bỏ viết xuống và nhìn Sư Cô Như Hạnh cười móm mém, như thầm cảm ơn và ra đi.

          Ông đi rồi Sư Cô Như Hạnh, đưa tờ giấy có chữ viết của Thi Sĩ Bùi Giáng với nét bút sắt thật đẹp cho tôi, ông viết không đẹp như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhưng mà vẫn đẹp, bay bướm nữa. Ông viết bốn câu lục bát :

 

Đi tu thứ nhất ở chùa,

Thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang –

 

Dược Sư thơ mộng vô vàn,

Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân.

 

Hai chữ tần thân ông viết bằng chữ Việt, ông mở ngoặc viết chữ Hán rồi đóng ngoặc lại. Tôi không hiểu hai chữ tần thân, sau này tra Tự Điển Hán Việt có nghĩa như sau: Tần : luôn luôn – Thân: rên rỉ .

 

Đọc bốn câu thơ lục bát của ông, mới thấy được cái tài hoa, cái xuất khẩu thành thơ của ông, cái uyên áo trong tứ thơ của ông. Tôi có một người bạn ở Hoa Kỳ, cũng là một thi sĩ am hiểu Phật học, tôi gởi tặng anh hai câu “ Đi tu thứ nhất ở chùa, thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang “ Anh hiểu theo cách hiểu của anh, giảng lại cho tôi nghe rất dài dòng văn tự. Anh giảng câu đầu là ông nói về tục đế, câu thứ hai nói về chân đế, trong tục có chân và trong chân có tục, tương nhiếp lẫn nhau, vân vân và vân vân. Tôi chỉ nghe không ý kiến bởi vì chỉ có Thi Sĩ Bùi Bàng Giúi mới có thể giảng giải thâm ý của ông .

 

 

Tôi mơ màng nghĩ ngợi hai câu sau :

 

 

Dược Sư thơ mộng vô vàn,

Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân.

 

Chắc hẳn rằng khi chia tay với vợ, và sau này cả người yêu nữa, ông có đau khổ, có trách họ, rằng họ đã không hiểu ông, không nuôi dưỡng hồn thơ ông, để ông cô đơn rồi đến nỗi phải chia tay. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn ông, ông vẫn còn yêu họ, thương họ, ông muốn có không khí ấm cúng của một gia đình, có đĩa cơm nóng hổi, đậm đà hương vị quê hương, có tô canh rau tần, đĩa mướp xào, chén tương, chén cà, đĩa rau luộc.…Ông đọc nhiều chắc ông có ao ước như Đại văn hào Nga Dostoiefski “ Tôi xin đổi tất cả văn nghiệp của tôi , để có được một người vợ, biết nấu cho ăn ngon, và biết đứng ở cửa đợi chờ tôi về, trong suốt một ngày tôi làm việc mệt “.

 

Vẫn còn yêu thương người nữ,vẫn nhớ đến người mang nặng đẻ đau mình, và công đức sinh thành hơn cả nước trong nguồn chảy ra nữa. Ông nhớ đến người mẹ mẫu mực nhưng lận đận một đời đã khuất, nên khi gặp Ni Sư Trí Hải, có tên đời là Công tằng tôn nữ Phùng Khánh, đẹp người, đẹp hạnh tu, trí tuệ bậc nhất trong giới tu nữ ở đất Sài thành, ông đem lòng thương kính cứ luôn gọi là mẫu thân Phùng Khánh, sau khi ông mất Ni Sư Trí Hải có giảng cho Tăng Ni Phật tử về thâm nghĩa trong thơ ca của Bùi Giáng trong nhiều buổi giảng . Thương, quý, Ni Sư Trí Hải ông thương lây qua các Ni Cô khác, nhất là các Ni Cô ở chùa Dược Sư, nơi mà ông thường lui tới nghỉ chân, được ăn cơm , được lì xì tiền tiêu vặt. Cảm nghĩa, cảm tình ông đã coi chùa Dược Sư là thơ mộng nhất, các Ni Cô là người hiền thục nhất, đẹp nhất trong giới nữ lưu. Ông đã nhớ đến họ, tâm tưởng đến họ và có lúc ông đã buồn, qua họ ông nhớ đến mẹ ông, vợ ông ngày cũ, nhớ đến người yêu dang dở chia tay. Nhớ đến thân phận của một kẻ lãng tử như mình, tứ cố vô thân, không một mái ấm gia đình. May thay vẫn còn lòng từ bi của Phật, cho ăn cho uống, không đuổi xô, hất hủi. Chính điều đó đã khiến cho ông buồn tủi, và cái buồn của ông “ Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân

 

Sống ông dạy học trường chùa, ăn cơm chùa, và khi chết ông được chùa Vĩnh Nghiêm lo tang lễ, có Sư Tăng tụng niệm nguyện cầu. Âu đó cũng là duyên phước cuối kiếp làm người của ông. Nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu, bỗng nhớ về ông trong một đêm mưa gió bời bời, viết về ông, ghi lại bốn câu thơ ân nghĩa của ông để giữ lại tinh hoa của ông để rơi rớt lại trên dặm đường lãng du, phiêu bạt,mà ông tự nhận đứng hàng thứ hai sau các Sư Cô xuất gia ở Chùa:

 

Đi tu thứ nhất ở chùa,

Thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang .

 

 

 Chùa Bửu Minh, Gia Lai,

 Mùa Vu Lan Phật Lịch 2552-DL.2008.

 

 Thích Giác Tâm

Chuyên mục:Uncategorized